Sau sáu tháng “holiday” dài đăng đẳng
ở trại tị nạn Pulau Bidong, sau sáu tháng trời Phiền Lo Bi Đát không
biết số phận sẽ về đâu và hai chục ngày “tắm nắng” ở trại chuyển tiếp Sungei
Beise, thứ nắng như thiêu như đốt của mùa hè miền nhiệt đới xứ
Mã Lai khiến ai cũng đen thui như Miên như mọi, gia đình thầy Phương gồm hai vợ
chồng, một đứa con gái nhỏ mới lên bốn và thằng em vợ 12 tuổi đã đuợc chính
thức đi định cư ở Úc trên chiếc boeing 747 rộng lớn, tối tân, sang trọng, mở
màn cho một cảnh đời mới tươi sáng, tràn trề hy vọng tương lai sau hơn bốn năm trời
sống ngột ngạt, hồi hộp, căng thẳng trong
trại tù khổng lồ tập thể của bọn cộng
sản vô nhân luật rừng.
Rời Mã Lai chiều 19/5/80 , hừng sáng hôm sau gia đình thầy Phương đã tới Úc đại lợi. Trước khi phi cơ hạ
cánh, một phụ nữ trung niên người Úc có nét mặt phúc hậu đi cùng chuyến bay
ngồi bên cạnh chỉ ra cảnh vật bên ngòai
nói với thầy Phương:
- Anh hãy nhìn kìa, bên
dưới là Sydney , thành phố chính của tiểu bang New South Wales . Nước Úc là một đất nước giàu có, rộng lớn
mênh mông, nhiều tài nguyên, lại là một
xứ sở thanh bình có nhiều cơ hội để phát triển. Người dân ở đây rất nồng hậu hiếu
khách, cởi mở. Anh chọn nơi này để định cư thật đúng chỗ đúng người, như người
Jew khi xưa đã chọn Israel làm đất hứa, là một may mắn lớn cho anh. Cầu chúc
gia đình anh được thành công mai này .
Thầy Phương cung kính nói cám ơn bà người Úc rồi cùng gia đình theo nhóm
người tị nạn xuống sân bay. Tương lai thì chưa biết ra sao nhưng qua cuộc sơ
ngộ với một người bản xứ đôn hậu đầy
thiện cảm này, thầy Phương đã có một ấn tượng thật đẹp về người Úc, về một xứ
sở mà rồi đây mình sẽ nhận là nhà, là quê hương thứ hai. Bao nhiêu hoang mang
lo lắng từ lúc lên phi cơ bỗng chốc tiêu tan nhường cho một sự phấn chấn, một
niềm tin yêu hy vọng chứa chan rộn rã trong lòng.
Việc đầu tiên, theo sự hướng dẫn của nhân viên Bộ xã hội, đòan người tị
nạn được một chiếc xe bus đưa đến bệnh
viện Lidcombe để khám sức khỏe tổng quát theo thủ tục mới nhập cư. Thuở ấy, vào
đầu thập niên 80, dân cư nhà cửa còn rất thưa thớt hoang vu, nhứt là mới hừng
đông rạng sáng còn phủ sương mù, đường sá vắng tanh im lìm như một thành phố
chết, một nghĩa trang lạnh lẽo buồn tênh, thỉnh thỏang mới thấy một chiếc xe chạy
ngược chiều, còn người thì chẳng mảy may một bóng dáng. Từ phi trường Mascot đi
tới Lidcombe, chiếc xe bus như một người còn ngái ngủ, rù rù chạy cà rịch cà
tang hơn một tiếng đồng hồ, trên xe ai
nấy đều mệt mỏi, nét mặt người nào cũng trĩu nặng nỗi ưu tư về một viễn ảnh tương lai thật
mơ hồ, không chút ấn tượng.
Khi tới bệnh viện, xuống xe bus rồi, mọi người mới nhận ra cái lạnh thấu
xương của thời tiết sắp lập đông của xứ bốn mùa rõ rệt. Từ Việt Nam sang Mã Lai, ở một xứ nóng quanh năm, ai ai
cũng chỉ mặc phong phanh một chiếc áo cánh, một chiếc quần mỏng mảnh, mang đôi dép
lẹp xẹp hở đủ mười đầu ngón chân. Thình lình vù một cái qua tới Úc, khí hậu trái
ngược hòan tòan như hai thái cực, cực nóng rồi cực lạnh khiến người nào người
nấy như muốn đóng băng, chân tay tê cóng không biết dấu vào đâu, nhấc chân đi
không muốn nổi.
Đám người tị nạn lếch thếch co ro lần lượt kéo nhau đi vào. Bên trong
bệnh viện thật ấm áp với hệ thống máy sưởi khiến mọi người cảm thấy dễ chịu khỏe
khoắn hơn lên. Còn đang đứng lóng nhóng chưa biết sẽ phải làm gì thì chợt đâu
có một ông người Úc phục sức sang trọng lịch lãm bước đến bên cạnh thầy Phương
đưa tay ra bắt tay thầy chào và gợi
chuyện:
- Chào anh, anh khỏe
không? Chắc anh từ Việt nam tới thì phải? Anh đi một mình hay với người thân?
Thầy Phương lịch sự đáp:
- Dạ, rất hân hạnh được
ông hỏi thăm. Tôi đi với vợ con và thằng em vợ. Chúng tôi là thuyền nhân chạy
nạn cộng sản, trốn từ Việt Nam sang Mã Lai và đã được phái đòan Úc phỏng vấn
nhận cho định cư ở xứ này.
Ông Úc niềm nỡ nói:
- Hoan nghênh anh tới Úc. Đây là một đất nước
tự do, qua tới đây rồi anh đừng lo lắng gì nữa cả. Mọi việc sẽ có người hướng
dẫn dìu dắt lúc ban đầu. Trông anh rất đường hòang đạo mạo, xin lỗi tôi hơi đường
đột, anh có thể cho tôi biết tên và nghề nghiệp của anh không?
Thầy Phương từ tốn đáp:
- Dạ, tôi là giáo viên
dạy sinh ngữ Anh và Pháp. Tôi tên thánh là
Pierre , ông cứ gọi tôi là Peter. Chắc ông cũng biết,
đối với chế độ công sản thì thành phần có học thức là thành phần bị coi là ngoan cố, chống đối, nhứt
là những nghề nghiệp có liên quan tới tiếng Anh đều bị bọn chúng nghi ngờ là tình báo CIA của
Mỹ. Vì thế chúng tôi không còn tòan quyền thực thi thiên chức nhà giáo của
chúng tôi như xưa. Mỗi giờ dạy bọn chúng đều cho người vào lớp giám sát theo dõi làm mất đi phẩm giá của chúng
tôi trong mắt học trò. Cả nước như một trại giam, một trại giam tuy không có chấn
song, cổng khóa nhưng lúc nào cũng có những con mắt quỷ quái theo dõi rình rập.
Dưới sự cai trị của một lũ ngu dốt độc tài đảng trị, người dân đã hòan tòan mất
hẳn tự do và nhân quyền, đời sống rất thống khổ lầm than như địa ngục. Tất cả
mọi người, ai ai cũng đều căm hận bất mãn tột cùng cho nên ai cũng muốn tìm
cách trốn đi dù biết rằng cơ hội rất mong manh, có thể phải trả giá bằng sinh mạng
của mình.
Ông Úc gật gù tỏ vẻ thông cảm, đồng thời ông ngỏ lời khen:
- Thảo nào anh nói
tiếng Anh trôi chảy quá. Tôi là bác sĩ giám đốc y tế phụ trách vùng phía tây Sydney này (Regional Health Director of the Western metropolitan
area of Sydney ). Hôm nay nhân đến đây thanh tra bệnh viện,
tình cờ gặp được anh, coi như ý Chúa. Anh cứ xem tôi là người bạn đầu tiên trên
đất nước xa lạ mới mẻ này đi nhé. Trước lạ sau quen, rồi một ngày gần không xa anh
cũng sẽ hòa nhập được với cuộc sống mới ở đây và cũng sẽ trở thành một công dân
Úc với đầy đủ quyền lợi như mọi người.
Rút tấm danh thiếp trong ví ra, ông nói tiếp:
- Đây là danh thiếp của
tôi, Tên tôi là Chris, từ nay có chuyện gì cần tôi giúp, anh cứ phone cho tôi. Bây
giờ tôi bận phải đi. Xin tạm biệt anh. Hẹn gặp lại anh vào một dịp khác. Chúc
anh may mắn.
Thầy Phương cầm lấy tấm danh thiếp nói cám ơn mà trong lòng nửa cảm kích,
nửa ngỡ ngàng. Nhìn ông ta rồi nhìn lại vợ chồng con cái mình, đứa nào đứa nấy
xác xơ tái mét, quần áo xốc xếch ống thấp ống cao, chân cẳng tím lịm không vớ
không giày. Vậy mà một người có địa vị cao
sang trong xã hội như ông ta lại chịu cúi xuống hỏi thăm chuyện trò. Dân Úc này
quả là hào khóang dư thừa lòng nhân, đã không kỳ thị, không phân chia giai cấp
lại còn tận tình chiếu cố những kẻ thất
thế sa cơ.
Sau thủ tục khám sức khỏe, nhóm người tị nạn được đưa về một hostel, trung
tâm tạm cư ăn ở miễn phí cho những người di dân và dân tị nạn từ khắp nơi trên
thế giới trong lúc chờ học tiếng Anh, chờ tìm việc làm hay mướn nhà họăc đợi
thân nhân sắp xếp đón về. Những ai thuộc diện “mồ côi” thì chờ giáo hội bảo lảnh.
Sau hai ngày lưu trú ở đó, gia đình thầy Phương cùng ba gia đình khác nữa được
thông báo là tuần sau sẽ phải rời hostel để đi về một vùng quê xa xôi nơi có
một nhóm giáo hội đã sẵn sàng bảo trợ. Biết được số phận của gia đình, sực nhớ
đến ông bác sĩ đã gặp ngày đầu tiên, thầy Phương muốn báo tin và nói lời từ giã
với ông ta nhưng trong túi không có một cắc bạc nào (vào thời đó muốn gọi phone
công cộng chỉ cần bỏ 10 cents). Lúc ở đảo Bidong, thầy chuyên làm thông dịch viên
thiện nguyện cho các phái đòan nói tiếng Anh tiếng Pháp giúp đỡ đồng bào khi
được gọi lên phỏng vấn. Vả lại dân thầy
giáo đầu óc “thẳng băng” như thầy thì còn biết làm cách nào ra tiền hơn ngòai
nghề dạy học ở xứ mình. Có chiếc nhẫn cưới và đôi bông tai của vợ thầy thì đã
bán mất để mua rau tươi ăn cầm cự mỗi ngày chớ cứ ba cái đồ hộp của Cao Ủy ăn
hòai nuốt không nổi.
Thế nên đến lúc đi định cư, tài sản của gia đình thầy mỗi đứa chỉ có võn vẹn một bộ đồ mỏng dánh
được cất trong cái túi hành trang may bằng bao đựng đường, ngòai ra chẳng còn
đồng xu nào lận lưng dằn túi. Bất đắc dĩ, thầy phải mượn 10 cents của một người
trong nhóm để gọi phone liên lạc với ông bác sĩ. Tưởng rằng chỉ từ giã ông Chris
rồi thôi, nào dè ông hẹn chiều đó sau giờ làm việc ông sẽ tới hostel đón về nhà
ông dùng cơm tối. Đối với một gia đình
tị nạn vừa mới đặt chân lên xứ người vài
ba hôm thì chuyện đó quả là một niềm vui không thể tưởng và là một vinh hạnh
lớn lao bất ngờ cho họ.
Buổi chiều, khi ông Chris đến rước thì trước khi đưa về nhà, ông chở đi
một vòng ra city ghé lại Botanical garden đứng bên này nhìn qua bên kia Opera House xem phong
cảnh. Nhưng lúc đó gia đình thầy Phương như thằng Mường ra phố, có đứa nào
trong bọn biết đâu là đâu và trời trăng mây nước ở hướng nào. Khỏang đường ông
phải lái xe chạy ngược chạy xuôi đêm đó tính ra chắc hơn cả trăm cây số. Văn
phòng làm việc của ông thì ở Parramatta , từ
đó ông chạy lại Villawood rước gia đình thầy Phương chở ra city coi cho biết Sydney by night. Rồi từ city đưa về nhà ông ở
Chastwood. Ăn tối xong sẽ từ Chastwood chở về trả lại hostel. Sau này khi đã
rành rẽ đường đi nước bước và các khu vực đông tây nam bắc, nghĩ lại thấy ông
thật là quá tốt bụng thương người. Gia đình thầy Phương đâu mắc mớ gì với ông, chẳng
những khác màu da, ngôn ngữ, lại hòan tòan xa lạ mà ông vẫn chịu khó bỏ công
sức thời gian để đem niềm vui đến cho họ.
Về đến tư gia, phu nhân của ông nghe bấm chuông vội chạy ra mở cửa và
Welcome từng người bằng cái hôn thân mật làm gia đình thầy Phương ai cũng cảm
thấy vừa ngại ngùng vừa ấm áp trong lòng. Bà có đứa con gái bằng tuổi con gái
thầy nên bảo cô bé mang đồ chơi ra để hai đứa chơi chung. Ông Chris sau khi
thay đồ ra, ông vào bếp chòang cái apron đứng làm bếp. Ông nói ông đã từng ở
Trung quốc vài tháng nên cũng biết xào nấu theo kiểu Á châu. Bà đã nướng sẵn món
honey chicken. Ông làm thêm món thịt bò xào nấm đông cô xắt sợi chung với giá
và cần tây. Đặc biệt, giá là do bà tự làm lấy ở nhà. Sau mấy ngày ăn đồ hostel
ớn tới cổ, hôm nay gia đình thầy Phương mới tìm lại được một chút hương vị cơm
gia đình Á châu mà từ ngày cất bước ly hương
đã phải bỏ lại ở quê nhà.
Trong buổi ăn, thầy Phương kể chuyện mất nước, chuyện cộng sản, chuyện
vượt biên. Hai ông bà bác sĩ tỏ ra rất xúc động thương cảm cho thân phận xấu số
của người Việt Nam và sự bất hạnh của một đất nước triền miên chinh chiến . Khi ra về, ông
bà còn biếu cho hai trăm dollars để phòng thân trong lúc chờ tiền phúc lợi của
chính phủ. Thầy Phương cố từ chối nhưng ông Chris nói khéo là coi như ông cho
mượn trước rồi sau này trả lại. Vì từ này về sau, nơi đây là quê hương thứ hai
của thầy, trước sau gì thầy cũng phải lập nghiệp ở đây vĩnh viễn, ông không sợ
thầy chạy mất đi đâu.
Thế là không nhận không được, bất đắc dĩ thầy Phương phải cầm lấy và nói
cám ơn. Đưa ra cửa, bà bác sĩ còn trao cho cô Phương và con gái cô mỗi người
một chiếc áo ấm mặc dầu cô nói là giáo hội Vincent de Paul đã có phát cho mọi
người trong ngày đầu khi tới hostel. Khi đưa gia đình thầy Phương về lại
hostel, ông bác sĩ dặn dò nhớ liên lạc cho biết tin tức và nếu có dịp trở lên Sydney thì hãy đến thăm ông. Gia đình thầy Phương vô
cùng cảm kích trước lòng tốt của ông bác sĩ
nhưng biết làm gì hơn là nói tiếng cám ơn trong niềm xúc động sâu xa tận
đáy lòng. Thầy Phương nhìn theo ông với cái nhìn của một Benhur lúc sa cơ, trên
đường bị giải đi làm tù binh súyt chết khát
đã được Chúa nâng đầu lên đổ vào miệng cho gáo nước cứu tỉnh. Số mệnh
con người quả là kỳ diệu, một khi đã tới thời gặp quý nhân thì dù muốn tránh
cũng không sao tránh được, không muốn mang ơn cũng phải thọ ơn.
Cuối tuần đó, gia đình thầy Phương và những người bạn đồng cảnh được đưa
về một vùng quê cách thành phố Sydney về phía Bắc 500 km. Khi máy bay đáp xuống
phi trường Port Macquarie thì đã có một nhóm
khỏang ba chục người trong hội bảo trợ đang tề tựu đứng đón. Và cạnh bên
họ còn có phóng viên nhà báo địa phương với chiếc máy ảnh trên tay. Những người
bảo trợ niềm nở trao cho mỗi gia đình một bó hoa đón mừng và những vòng tay
thân ái . Ông phóng viên vội vàng làm nhiệm vụ, chụp ảnh từng gia đình để mai
này đăng lên báo với đề tài Welcome the first refugees to Wauchope. Nghĩ mà thật
tức cười. Dân cố cựu ở đây cả đời chưa chắc có ai đã được lên báo, khi không
khi khổng một đám tị nạn da màu lạ huơ lạ hoắc từ đâu trôi nổi lạc lòai tới lại
được đón rước linh đình như đại sứ, yếu nhân. Con rồng cháu tiên quả thật có
khác, vừa oai mà cũng vừa… quê quê làm sao!.
Sau đó họ chở mọi người trên những chiếc xe riêng của họ đi về quận hạt
Wauchope, một timbertown cách Port Macquarie 21 km, chỉ có 4000 cư dân mà đa số
là người lớn tuổi và những người trẻ còn trong lứa tuổi đến trường. Về đến nhà
thì đã 3giờ rưởi chiều. Họ đã chuẩn bị sẵn một tiệc trà với bánh ngọt,
sandwiches và cà phê. Họ mướn hai căn nhà lớn cho bốn gia đình chia nhau ở, mỗi
căn đều có bốn phòng với đầy đủ tiện nghi căn bản. Sau một hồi chào hỏi giới
thiệu lẫn nhau, họ dẫn đi chung quanh nhà chỉ phòng này phòng nọ. Đến nhà bếp,
một bà mở tủ lạnh chỉ thức ăn tươi để sẵn trong tủ cho buổi cơm chiều, một con
cá snapper thật to, một dĩa ức gà, một bụi cần tây, nửa cái bắp cải, vài trái
cà chua, hành củ , hai hộp trứng, cheese và sữa v.v. Họ còn khoe rằng họ biết
người Việt Nam thích ăn cơm nên cũng chuẩn bị sẵn một ít gạo. Cô Phương thắc
mắc hỏi vậy chớ gạo để ở đâu vì cô cứ đinh ninh rằng gạo là phải được chứa
trong một cái khạp hay thùng gì ít nhứt cũng khỏang chục ký, đã bảo là biết
người Việt phải ăn cơm mà sao không thấy lu gạo đâu hết. Ai ngờ bà bảo trợ chỉ
lên một cái hộp cở hai lít trên kệ cao nói gạo để trong đó. Cô Phương với tính
thật thà chân chất nghĩ ngay trong đầu một ý nghĩ ngộ nghĩnh nhưng rất thực tế
rằng nếu gạo mà để trên đó thì chắc ăn chiều nay là ngày mai phải lo “chạy gạo”
nữa rồi. Ở xứ mình dân khổ nhứt là chạy
gạo, khổ cực biết bao mới qua được tới đây lại phải chạy gạo nữa sao trời!
Nhưng may thay sự lo lắng của cô Phương không phải kéo dài lâu vì nhóm
người bảo trợ trước khi ra về, họ hẹn ngày hôm sau sẽ trợ lại hướng dẫn thủ tục
xin trợ cấp và đưa mọi người đi shop coi
cần mua sắm gì thì họ sẽ ứng trước. Vậy là yên chí lớn. Chiều đó cô Phương thái
con cá ra lấy thịt xào rau cần và chiên mấy quả trứng với hành tây, còn mấy
miếng thịt gà đem nấu nồi canh bắp cải. Hơn sáu tháng trời ở Bidong tòan ăn đồ
hộp của Cao ủy phát, qua tới Úc ở hostel một tuần thì ngày nào cũng nghe mùi
thịt trừu và ăn cơm sống, đứa nào cũng mất hai ba kilos. Hôm nay mới chính thức
được ăn lại bữa cơm đúng khẩu vị thuần túy của mình do chính mình nấu nên cô Phương
rất hăm hở nhào vô bếp nấu một bữa thật ngon cho cả nhà. Cũng may trước khi rời
Sydney , những người Việt Nam ở hostel đã bày cho thầy Phương mua hai chai
nước mắm mực mang theo chớ không thôi bây giờ nấu ăn chỉ có muối không làm sao
ngon cho được.
Sáng hôm sau và những ngày hôm sau nữa, liên tiếp hai tuần lễ, mỗi ngày những
người bảo trợ đều đến để chỉ dẫn giúp đỡ bất cứ chuyện gì.Trước tiên thì đưa cả
đám đến phòng thất nghiệp làm hồ sơ để xin tiền trợ cấp an sinh xã hội trong lúc chưa có việc làm, kế đến đi ngân
hàng mở sổ bank để chính phủ gởi tiền vào đó. Và họ thay phiên mỗi người một
ngày dạy Anh ngữ đàm thọai cho người lớn. Còn trẻ em thì họ ghi danh sắp xếp
cho vào các trường trung, tiểu học tùy lứa tuổi. Cuối tuần họ chở đi
Port Macquarie picnic họặc du
ngoạn ở những vùng lân cận chung quanh.
Sau một tháng trời ăn ở không đi lỏng nhỏng, mọi người đều thấy “ngứa
tay ngứa chân” sẵn sàng săn tay áo để làm việc nhưng ở một vùng nông thôn sàng
dã, đời sống nhàn hạ không cần giành giựt bon chen thì làm gì có việc cho làm.
Hảng xưởng không có, công sở thì le hoe, đâu đó đã đủ nhân viên. Riêng thầy Phương,
sau một buổi được một trường trung học mời
thuyết trình cho lớp 11 và 12 về nguyên nhân đi tị nạn của dân tộc thầy ,
ông hiệu trưởng đã nhiệt tình khuyên thầy nên đem gia đình trở lại Sydney vì
Wauchope này không có cơ hội cho những người muốn khởi sự làm lại cuộc đời, lại
càng không có tương lai cho con cái.
Rồi sau đó, ông hiệu trưởng liên lạc với giáo hội tin lành ở Sydney giới thiệu thầy Phương với họ và hẹn ngày cho
thầy gặp họ ở Sydney . Trước tiên, thầy Phương trở lại Sydney một mình để gặp gỡ và trình bày hòan cảnh của
mình với một người đại diện trong hội. Có nơi ăn chốn ở xong xuôi thầy mới về
Wauchope tạ ơn hội bảo trợ, xin từ giã họ và rước gia đình về thành. Thầy
Phương tiên phong đi trước để rồi những người bạn cùng hội cùng thuyền sau đó
cũng nối gót gia đình thầy lần lượt giã từ timbertown dọn đi nơi khác lập
nghiệp. Nếu Việt Nam là quê mẹ ruột thì Wauchope được ví như quê mẹ nuôi để về
sau, mỗi khi có cơ hội, đàn con tị nạn lại trở về thăm viếng như một tri ân nơi
đã cưu mang họ những ngày đầu trên bước đường định cư đầy bỡ ngỡ.
Vạn sự khởi đầu nan, cuộc đời ai cũng phải trải qua những chặng bắt đầu.
Có gặp gian khó thì mới ló được cái khôn. Khổ nhứt là cô Phương vì từ nhỏ cho tới
lớn cô quen được bảo bọc trong vòng tay cha mẹ. Khi lấy chồng thì gặp được
người chồng tốt, rất mực chăm sóc gia đình nên cô không từng biết bôn ba. Bây
giờ lưu lạc đất khách quê người, cô phải phụ giúp chồng lo sinh kế, như một
người không biết lội rớt xuống sông cô thật chới với, không biết bám vào đâu,
chỉ biết cậy trông nơi đấng thiêng liêng, Đức Mẹ hằng cứu giúp.
Nhớ thuở ban sơ mới tới bờ
Vai tựa chồng tay dắt con thơ
Lẻo đẻo theo sau thằng em nhỏ
Nắm chặt nhau sợ lạc bất ngờ
Thuở nhỏ quen sống cha mẹ lo
Đến khi xuất giá được chồng phò
Tới ngày mất nước đi tị nạn
Một mình bốn mạng mới biết lo
Ở xứ người, nghề chọn người chớ người không thể chọn nghề nên lúc bắt
đầu ai cũng như ai, đụng đâu làm đó chẳng câu nệ ngại ngùng gì. Có chút tiền
dằn túi trước rồi muốn gì thì mới tính sau. Do đó, sĩ nông công thương, thầy
hay thợ, quân tử hay tiểu nhân, cùng đinh hay trí thức, những tâm hồn lớn nhỏ
gì cũng có thể ngồi chung một chiếc thuyền, cùng chung một mục đích là kiếm
tiền. Có lâm vào hòan cảnh thất sở thân sơ trôi nổi quê người như vậy mới thấy
rằng thiên tử cũng đồng hạng với thứ dân. Tay làm thì hàm mới nhai. Hơn nữa, có no ấm bản thân thì mới có thể nghĩ
đến chuyện thù nhà nợ nước được. Chừng đó có muốn đánh giặc ta hay giặc tàu gì
thì cứ mặc sức, không còn kẹt phải lo cái bụng đòi cơm và cái miệng than đói. Nhưng
dẫu sao, ở một đất nước tự do chan chứa tình người như nước Úc này thì người
dân dù có nhọc nhằn, khổ cực cho mấy vì sinh kế cũng chẳng thấm thía gì đâu so với
mấy chục triệu đồng bào còn kẹt lại nơi quê nhà đang ngày ngày sống vất vưởng đọa
đày trong địa ngục cộng sản không biết đến ngày nào mới được giải thóat đầu
thai...
Người Phương Nam