Saturday, February 18, 2012

NHỮNG NGÀY MỚI TỚI


Sau sáu tháng “holiday” dài đăng đẳng  ở trại tị nạn Pulau Bidong, sau sáu tháng trời Phiền Lo Bi Đát không biết số phận sẽ về đâu và hai chục ngày “tắm nắng” ở trại chuyển tiếp Sungei Beise, thứ  nắng  như thiêu như đốt của mùa hè miền nhiệt đới xứ Mã Lai khiến ai cũng đen thui như Miên như mọi, gia đình thầy Phương gồm hai vợ chồng, một đứa con gái nhỏ mới lên bốn và thằng em vợ 12 tuổi đã đuợc chính thức đi định cư ở Úc trên chiếc boeing 747 rộng lớn, tối tân, sang trọng, mở màn cho một cảnh đời mới tươi sáng, tràn trề hy vọng tương lai sau hơn bốn năm trời sống ngột ngạt, hồi hộp, căng thẳng  trong trại  tù khổng lồ tập thể của bọn cộng sản vô nhân luật rừng.

Rời Mã Lai chiều 19/5/80, hừng sáng hôm sau gia đình thầy  Phương đã tới Úc đại lợi. Trước khi phi cơ hạ cánh, một phụ nữ trung niên người Úc có nét mặt phúc hậu đi cùng chuyến bay ngồi bên cạnh  chỉ ra cảnh vật bên ngòai nói với thầy Phương:
            - Anh hãy nhìn kìa, bên dưới là Sydney, thành phố chính của tiểu bang New South Wales. Nước Úc là một đất nước giàu có, rộng lớn mênh mông, nhiều tài nguyên,  lại là một xứ sở thanh bình có nhiều cơ hội để phát triển. Người dân ở đây rất nồng hậu hiếu khách, cởi mở. Anh chọn nơi này để định cư thật đúng chỗ đúng người, như người Jew khi xưa đã chọn Israel làm đất hứa, là một may mắn lớn cho anh. Cầu chúc gia đình anh được thành công mai  này .        
Thầy Phương cung kính nói cám ơn bà người Úc rồi cùng gia đình theo nhóm người tị nạn xuống sân bay. Tương lai thì chưa biết ra sao nhưng qua cuộc sơ ngộ với một người bản xứ  đôn hậu đầy thiện cảm này, thầy Phương đã có một ấn tượng thật đẹp về người Úc, về một xứ sở mà rồi đây mình sẽ nhận là nhà, là quê hương thứ hai. Bao nhiêu hoang mang lo lắng từ lúc lên phi cơ bỗng chốc tiêu tan nhường cho một sự phấn chấn, một niềm tin yêu hy vọng chứa chan rộn rã trong lòng.
Việc đầu tiên, theo sự hướng dẫn của nhân viên Bộ xã hội, đòan người tị nạn được một chiếc xe bus đưa đến  bệnh viện Lidcombe để khám sức khỏe tổng quát theo thủ tục mới nhập cư. Thuở ấy, vào đầu thập niên 80, dân cư nhà cửa còn rất thưa thớt hoang vu, nhứt là mới hừng đông rạng sáng còn phủ sương mù, đường sá vắng tanh im lìm như một thành phố chết, một nghĩa trang lạnh lẽo buồn tênh, thỉnh thỏang mới thấy một chiếc xe chạy ngược chiều, còn người thì chẳng mảy may một bóng dáng. Từ phi trường Mascot đi tới Lidcombe, chiếc xe bus như một người còn ngái ngủ, rù rù chạy cà rịch cà tang  hơn một tiếng đồng hồ, trên xe ai nấy đều mệt mỏi, nét mặt người nào cũng  trĩu nặng nỗi ưu tư về một viễn ảnh tương lai thật mơ hồ, không chút ấn tượng.  

Khi tới bệnh viện, xuống xe bus rồi, mọi người mới nhận ra cái lạnh thấu xương của thời tiết sắp lập đông của xứ bốn mùa rõ rệt. Từ Việt Nam sang Mã Lai, ở một xứ nóng quanh năm, ai ai cũng chỉ mặc phong phanh một chiếc áo cánh, một chiếc quần mỏng mảnh, mang đôi dép lẹp xẹp hở đủ mười đầu ngón chân. Thình lình vù một cái qua tới Úc, khí hậu trái ngược hòan tòan như hai thái cực, cực nóng rồi cực lạnh khiến người nào người nấy như muốn đóng băng, chân tay tê cóng không biết dấu vào đâu, nhấc chân đi không muốn nổi.
Đám người tị nạn lếch thếch co ro lần lượt kéo nhau đi vào. Bên trong bệnh viện thật ấm áp với hệ thống máy sưởi khiến mọi người cảm thấy dễ chịu khỏe khoắn hơn lên. Còn đang đứng lóng nhóng chưa biết sẽ phải làm gì thì chợt đâu có một ông người Úc phục sức sang trọng lịch lãm bước đến bên cạnh thầy Phương đưa tay ra bắt tay thầy  chào và gợi chuyện:
            - Chào anh, anh khỏe không? Chắc anh từ Việt nam tới thì phải? Anh đi một mình hay với người thân?  
Thầy Phương lịch sự đáp:
            - Dạ, rất hân hạnh được ông hỏi thăm. Tôi đi với vợ con và thằng em vợ. Chúng tôi là thuyền nhân chạy nạn cộng sản, trốn từ Việt Nam sang Mã Lai và đã được phái đòan Úc phỏng vấn nhận cho định cư ở xứ này.
Ông Úc niềm nỡ nói:
            -  Hoan nghênh anh tới Úc. Đây là một đất nước tự do, qua tới đây rồi anh đừng lo lắng gì nữa cả. Mọi việc sẽ có người hướng dẫn dìu dắt lúc ban đầu. Trông anh rất đường hòang đạo mạo, xin lỗi tôi hơi đường đột, anh có thể cho tôi biết tên và nghề nghiệp của anh không?
Thầy Phương từ tốn đáp:
            - Dạ, tôi là giáo viên dạy sinh ngữ Anh và Pháp.  Tôi tên thánh là Pierre, ông cứ gọi tôi là Peter. Chắc ông cũng biết, đối với chế độ công sản thì thành phần có học thức  là thành phần bị coi là ngoan cố, chống đối, nhứt là những nghề nghiệp có liên quan tới tiếng Anh  đều bị bọn chúng nghi ngờ là tình báo CIA của Mỹ. Vì thế chúng tôi không còn tòan quyền thực thi thiên chức nhà giáo của chúng tôi như xưa. Mỗi giờ dạy bọn chúng đều cho người  vào lớp  giám sát theo dõi làm mất đi phẩm giá của chúng tôi trong mắt học trò. Cả nước như một trại giam, một trại giam tuy không có chấn song, cổng khóa nhưng lúc nào cũng có những con mắt quỷ quái theo dõi rình rập. Dưới sự cai trị của một lũ ngu dốt độc tài đảng trị, người dân đã hòan tòan mất hẳn tự do và nhân quyền, đời sống rất thống khổ lầm than như địa ngục. Tất cả mọi người, ai ai cũng đều căm hận bất mãn tột cùng cho nên ai cũng muốn tìm cách trốn đi dù biết rằng cơ hội rất mong manh, có thể phải trả giá bằng sinh mạng của mình. 
Ông Úc gật gù tỏ vẻ thông cảm, đồng thời ông ngỏ lời khen:
            - Thảo nào anh nói tiếng Anh trôi chảy quá. Tôi là bác sĩ giám đốc y tế phụ trách vùng phía tây Sydney này (Regional Health Director of the Western metropolitan area of Sydney). Hôm nay nhân đến đây thanh tra bệnh viện, tình cờ gặp được anh, coi như ý Chúa. Anh cứ xem tôi là người bạn đầu tiên trên đất nước xa lạ mới mẻ này đi nhé. Trước lạ sau quen, rồi một ngày gần không xa anh cũng sẽ hòa nhập được với cuộc sống mới ở đây và cũng sẽ trở thành một công dân Úc với đầy đủ quyền lợi như mọi người.
Rút tấm danh thiếp trong ví ra, ông nói tiếp:
            - Đây là danh thiếp của tôi, Tên tôi là Chris, từ nay có chuyện gì cần tôi giúp, anh cứ phone cho tôi. Bây giờ tôi bận phải đi. Xin tạm biệt anh. Hẹn gặp lại anh vào một dịp khác. Chúc anh may mắn.

Thầy Phương cầm lấy tấm danh thiếp nói cám ơn mà trong lòng nửa cảm kích, nửa ngỡ ngàng. Nhìn ông ta rồi nhìn lại vợ chồng con cái mình, đứa nào đứa nấy xác xơ tái mét, quần áo xốc xếch ống thấp ống cao, chân cẳng tím lịm không vớ không giày. Vậy mà một người  có địa vị cao sang trong xã hội như ông ta lại chịu cúi xuống hỏi thăm chuyện trò. Dân Úc này quả là hào khóang dư thừa lòng nhân, đã không kỳ thị, không phân chia giai cấp lại còn tận tình chiếu cố  những kẻ thất thế sa cơ. 
Sau thủ tục khám sức khỏe, nhóm người tị nạn được đưa về một hostel, trung tâm tạm cư ăn ở miễn phí cho những người di dân và dân tị nạn từ khắp nơi trên thế giới trong lúc chờ học tiếng Anh, chờ tìm việc làm hay mướn nhà họăc đợi thân nhân sắp xếp đón về. Những ai thuộc diện “mồ côi” thì chờ giáo hội bảo lảnh. Sau hai ngày lưu trú ở đó, gia đình thầy Phương cùng ba gia đình khác nữa được thông báo là tuần sau sẽ phải rời hostel để đi về một vùng quê xa xôi nơi có một nhóm giáo hội đã sẵn sàng bảo trợ. Biết được số phận của gia đình, sực nhớ đến ông bác sĩ đã gặp ngày đầu tiên, thầy Phương muốn báo tin và nói lời từ giã với ông ta nhưng trong túi không có một cắc bạc nào (vào thời đó muốn gọi phone công cộng chỉ cần bỏ 10 cents). Lúc ở đảo Bidong, thầy chuyên làm thông dịch viên thiện nguyện cho các phái đòan nói tiếng Anh tiếng Pháp giúp đỡ đồng bào khi được gọi lên phỏng vấn.  Vả lại dân thầy giáo đầu óc “thẳng băng” như thầy thì còn biết làm cách nào ra tiền hơn ngòai nghề dạy học ở xứ mình. Có chiếc nhẫn cưới và đôi bông tai của vợ thầy thì đã bán mất để mua rau tươi ăn cầm cự mỗi ngày chớ cứ ba cái đồ hộp của Cao Ủy ăn hòai nuốt không nổi.
Thế nên đến lúc đi định cư, tài sản của gia đình thầy  mỗi đứa chỉ có võn vẹn một bộ đồ mỏng dánh được cất trong cái túi hành trang may bằng bao đựng đường, ngòai ra chẳng còn đồng xu nào lận lưng dằn túi. Bất đắc dĩ, thầy phải mượn 10 cents của một người trong nhóm để gọi phone liên lạc với ông bác sĩ. Tưởng rằng chỉ từ giã ông Chris rồi thôi, nào dè ông hẹn chiều đó sau giờ làm việc ông sẽ tới hostel đón về nhà ông  dùng cơm tối. Đối với một gia đình tị nạn vừa mới đặt chân lên xứ người  vài ba hôm thì chuyện đó quả là một niềm vui không thể tưởng và là một vinh hạnh lớn lao bất ngờ cho họ.   

Buổi chiều, khi ông Chris đến rước thì trước khi đưa về nhà, ông chở đi một vòng ra city ghé lại Botanical garden đứng bên này nhìn qua bên kia Opera House xem phong cảnh. Nhưng lúc đó gia đình thầy Phương như thằng Mường ra phố, có đứa nào trong bọn biết đâu là đâu và trời trăng mây nước ở hướng nào. Khỏang đường ông phải lái xe chạy ngược chạy xuôi đêm đó tính ra chắc hơn cả trăm cây số. Văn phòng làm việc của ông thì ở Parramatta, từ đó ông chạy lại Villawood rước gia đình thầy Phương chở ra city coi cho biết Sydney by night. Rồi từ city đưa về nhà ông ở Chastwood. Ăn tối xong sẽ từ Chastwood chở về trả lại hostel. Sau này khi đã rành rẽ đường đi nước bước và các khu vực đông tây nam bắc, nghĩ lại thấy ông thật là quá tốt bụng thương người. Gia đình thầy Phương đâu mắc mớ gì với ông, chẳng những khác màu da, ngôn ngữ, lại hòan tòan xa lạ mà ông vẫn chịu khó bỏ công sức thời gian để đem niềm vui đến cho họ.  

Về đến tư gia, phu nhân của ông nghe bấm chuông vội chạy ra mở cửa và Welcome từng người bằng cái hôn thân mật làm gia đình thầy Phương ai cũng cảm thấy vừa ngại ngùng vừa ấm áp trong lòng. Bà có đứa con gái bằng tuổi con gái thầy nên bảo cô bé mang đồ chơi ra để hai đứa chơi chung. Ông Chris sau khi thay đồ ra, ông vào bếp chòang cái apron đứng làm bếp. Ông nói ông đã từng ở Trung quốc vài tháng nên cũng biết xào nấu theo kiểu Á châu. Bà đã nướng sẵn món honey chicken. Ông làm thêm món thịt bò xào nấm đông cô xắt sợi chung với giá và cần tây. Đặc biệt, giá là do bà tự làm lấy ở nhà. Sau mấy ngày ăn đồ hostel ớn tới cổ, hôm nay gia đình thầy Phương mới tìm lại được một chút hương vị cơm gia đình Á châu mà từ ngày cất bước ly hương  đã phải bỏ lại ở quê nhà.  

Trong buổi ăn, thầy Phương kể chuyện mất nước, chuyện cộng sản, chuyện vượt biên. Hai ông bà bác sĩ tỏ ra rất xúc động thương cảm cho thân phận xấu số của người Việt Nam và sự bất hạnh của một đất nước triền miên chinh chiến . Khi ra về, ông bà còn biếu cho hai trăm dollars để phòng thân trong lúc chờ tiền phúc lợi của chính phủ. Thầy Phương cố từ chối nhưng ông Chris nói khéo là coi như ông cho mượn trước rồi sau này trả lại. Vì từ này về sau, nơi đây là quê hương thứ hai của thầy, trước sau gì thầy cũng phải lập nghiệp ở đây vĩnh viễn, ông không sợ thầy chạy mất đi đâu.    

Thế là không nhận không được, bất đắc dĩ thầy Phương phải cầm lấy và nói cám ơn. Đưa ra cửa, bà bác sĩ còn trao cho cô Phương và con gái cô mỗi người một chiếc áo ấm mặc dầu cô nói là giáo hội Vincent de Paul đã có phát cho mọi người trong ngày đầu khi tới hostel. Khi đưa gia đình thầy Phương về lại hostel, ông bác sĩ dặn dò nhớ liên lạc cho biết tin tức và nếu có dịp trở lên Sydney thì hãy đến thăm ông. Gia đình thầy Phương vô cùng cảm kích trước lòng tốt của ông bác sĩ  nhưng biết làm gì hơn là nói tiếng cám ơn trong niềm xúc động sâu xa tận đáy lòng. Thầy Phương nhìn theo ông với cái nhìn của một Benhur lúc sa cơ, trên đường bị giải đi làm tù binh súyt chết khát  đã được Chúa nâng đầu lên đổ vào miệng cho gáo nước cứu tỉnh. Số mệnh con người quả là kỳ diệu, một khi đã tới thời gặp quý nhân thì dù muốn tránh cũng không sao tránh được, không muốn mang ơn cũng phải thọ ơn.

Cuối tuần đó, gia đình thầy Phương và những người bạn đồng cảnh được đưa về một vùng quê cách thành phố Sydney về phía Bắc 500 km. Khi máy bay đáp xuống phi trường Port Macquarie thì đã có một nhóm  khỏang ba chục người trong hội bảo trợ đang tề tựu đứng đón. Và cạnh bên họ còn có phóng viên nhà báo địa phương với chiếc máy ảnh trên tay. Những người bảo trợ niềm nở trao cho mỗi gia đình một bó hoa đón mừng và những vòng tay thân ái . Ông phóng viên vội vàng làm nhiệm vụ, chụp ảnh từng gia đình để mai này đăng lên báo với đề tài Welcome the first refugees to Wauchope. Nghĩ mà thật tức cười. Dân cố cựu ở đây cả đời chưa chắc có ai đã được lên báo, khi không khi khổng một đám tị nạn da màu lạ huơ lạ hoắc từ đâu trôi nổi lạc lòai tới lại được đón rước linh đình như đại sứ, yếu nhân. Con rồng cháu tiên quả thật có khác, vừa oai mà cũng vừa… quê quê làm sao!.

Sau đó họ chở mọi người trên những chiếc xe riêng của họ đi về quận hạt Wauchope, một timbertown cách Port Macquarie 21 km, chỉ có 4000 cư dân mà đa số là người lớn tuổi và những người trẻ còn trong lứa tuổi đến trường. Về đến nhà thì đã 3giờ rưởi chiều. Họ đã chuẩn bị sẵn một tiệc trà với bánh ngọt, sandwiches và cà phê. Họ mướn hai căn nhà lớn cho bốn gia đình chia nhau ở, mỗi căn đều có bốn phòng với đầy đủ tiện nghi căn bản. Sau một hồi chào hỏi giới thiệu lẫn nhau, họ dẫn đi chung quanh nhà chỉ phòng này phòng nọ. Đến nhà bếp, một bà mở tủ lạnh chỉ thức ăn tươi để sẵn trong tủ cho buổi cơm chiều, một con cá snapper thật to, một dĩa ức gà, một bụi cần tây, nửa cái bắp cải, vài trái cà chua, hành củ , hai hộp trứng, cheese và sữa v.v. Họ còn khoe rằng họ biết người Việt Nam thích ăn cơm nên cũng chuẩn bị sẵn một ít gạo. Cô Phương thắc mắc hỏi vậy chớ gạo để ở đâu vì cô cứ đinh ninh rằng gạo là phải được chứa trong một cái khạp hay thùng gì ít nhứt cũng khỏang chục ký, đã bảo là biết người Việt phải ăn cơm mà sao không thấy lu gạo đâu hết. Ai ngờ bà bảo trợ chỉ lên một cái hộp cở hai lít trên kệ cao nói gạo để trong đó. Cô Phương với tính thật thà chân chất nghĩ ngay trong đầu một ý nghĩ ngộ nghĩnh nhưng rất thực tế rằng nếu gạo mà để trên đó thì chắc ăn chiều nay là ngày mai phải lo “chạy gạo” nữa rồi.  Ở xứ mình dân khổ nhứt là chạy gạo, khổ cực biết bao mới qua được tới đây lại phải chạy gạo nữa sao trời!

Nhưng may thay sự lo lắng của cô Phương không phải kéo dài lâu vì nhóm người bảo trợ trước khi ra về, họ hẹn ngày hôm sau sẽ trợ lại hướng dẫn thủ tục xin trợ cấp và đưa mọi người đi  shop coi cần mua sắm gì thì họ sẽ ứng trước. Vậy là yên chí lớn. Chiều đó cô Phương thái con cá ra lấy thịt xào rau cần và chiên mấy quả trứng với hành tây, còn mấy miếng thịt gà đem nấu nồi canh bắp cải. Hơn sáu tháng trời ở Bidong tòan ăn đồ hộp của Cao ủy phát, qua tới Úc ở hostel một tuần thì ngày nào cũng nghe mùi thịt trừu và ăn cơm sống, đứa nào cũng mất hai ba kilos. Hôm nay mới chính thức được ăn lại bữa cơm đúng khẩu vị thuần túy của mình do chính mình nấu nên cô Phương rất hăm hở nhào vô bếp nấu một bữa thật ngon cho cả nhà. Cũng may trước khi rời Sydney, những người Việt Nam ở hostel đã bày cho thầy Phương mua hai chai nước mắm mực mang theo chớ không thôi bây giờ nấu ăn chỉ có muối không làm sao ngon cho được.
Sáng hôm sau và những ngày hôm sau nữa, liên tiếp hai tuần lễ, mỗi ngày những người bảo trợ đều đến để chỉ dẫn giúp đỡ bất cứ chuyện gì.Trước tiên thì đưa cả đám đến phòng thất nghiệp làm hồ sơ để xin tiền trợ cấp an sinh xã hội  trong lúc chưa có việc làm, kế đến đi ngân hàng mở sổ bank để chính phủ gởi tiền vào đó. Và họ thay phiên mỗi người một ngày dạy Anh ngữ đàm thọai cho người lớn. Còn trẻ em thì họ ghi danh sắp xếp cho vào các trường trung, tiểu học tùy lứa tuổi. Cuối tuần họ chở  đi  Port Macquarie  picnic họặc du ngoạn ở những vùng lân cận chung quanh.
Sau một tháng trời ăn ở không đi lỏng nhỏng, mọi người đều thấy “ngứa tay ngứa chân” sẵn sàng săn tay áo để làm việc nhưng ở một vùng nông thôn sàng dã, đời sống nhàn hạ không cần giành giựt bon chen thì làm gì có việc cho làm. Hảng xưởng không có, công sở thì le hoe, đâu đó đã đủ nhân viên. Riêng thầy Phương, sau một buổi được một trường trung học mời  thuyết trình cho lớp 11 và 12 về nguyên nhân đi tị nạn của dân tộc thầy , ông hiệu trưởng đã nhiệt tình khuyên thầy nên đem gia đình trở lại Sydney vì Wauchope này không có cơ hội cho những người muốn khởi sự làm lại cuộc đời, lại càng không có tương lai cho con cái.
Rồi sau đó, ông hiệu trưởng liên lạc với giáo hội tin lành ở Sydney giới thiệu thầy Phương với họ và hẹn ngày cho thầy gặp họ ở Sydney. Trước tiên, thầy Phương trở lại Sydney một mình để gặp gỡ và trình bày hòan cảnh của mình với một người đại diện trong hội. Có nơi ăn chốn ở xong xuôi thầy mới về Wauchope tạ ơn hội bảo trợ, xin từ giã họ và rước gia đình về thành. Thầy Phương tiên phong đi trước để rồi những người bạn cùng hội cùng thuyền sau đó cũng nối gót gia đình thầy lần lượt giã từ timbertown dọn đi nơi khác lập nghiệp. Nếu Việt Nam là quê mẹ ruột thì Wauchope được ví như quê mẹ nuôi để về sau, mỗi khi có cơ hội, đàn con tị nạn lại trở về thăm viếng như một tri ân nơi đã cưu mang họ những ngày đầu trên bước đường định cư đầy bỡ ngỡ.   

Vạn sự khởi đầu nan, cuộc đời ai cũng phải trải qua những chặng bắt đầu. Có gặp gian khó thì mới ló được cái khôn. Khổ nhứt là cô Phương vì từ nhỏ cho tới lớn cô quen được bảo bọc trong vòng tay cha mẹ. Khi lấy chồng thì gặp được người chồng tốt, rất mực chăm sóc gia đình nên cô không từng biết bôn ba. Bây giờ lưu lạc đất khách quê người, cô phải phụ giúp chồng lo sinh kế, như một người không biết lội rớt xuống sông cô thật chới với, không biết bám vào đâu, chỉ biết cậy trông nơi đấng thiêng liêng, Đức Mẹ hằng cứu giúp.

Nhớ thuở ban sơ mới tới bờ
Vai tựa chồng tay dắt con thơ
Lẻo đẻo theo sau thằng em nhỏ
Nắm chặt nhau sợ lạc bất ngờ

Thuở nhỏ quen sống cha mẹ lo
Đến khi xuất giá được chồng phò
Tới ngày mất nước đi tị nạn
Một mình bốn mạng mới biết lo

Ở xứ người, nghề chọn người chớ người không thể chọn nghề nên lúc bắt đầu ai cũng như ai, đụng đâu làm đó chẳng câu nệ ngại ngùng gì. Có chút tiền dằn túi trước rồi muốn gì thì mới tính sau. Do đó, sĩ nông công thương, thầy hay thợ, quân tử hay tiểu nhân, cùng đinh hay trí thức, những tâm hồn lớn nhỏ gì cũng có thể ngồi chung một chiếc thuyền, cùng chung một mục đích là kiếm tiền. Có lâm vào hòan cảnh thất sở thân sơ trôi nổi quê người như vậy mới thấy rằng thiên tử cũng đồng hạng với thứ dân. Tay làm thì hàm mới nhai. Hơn nữa, có no ấm bản thân thì mới có thể nghĩ đến chuyện thù nhà nợ nước được. Chừng đó có muốn đánh giặc ta hay giặc tàu gì thì cứ mặc sức, không còn kẹt phải lo cái bụng đòi cơm và cái miệng than đói. Nhưng dẫu sao, ở một đất nước tự do chan chứa tình người như nước Úc này thì người dân dù có nhọc nhằn, khổ cực cho mấy vì sinh kế cũng chẳng thấm thía gì đâu so với mấy chục triệu đồng bào còn kẹt lại nơi quê nhà đang ngày ngày sống vất vưởng đọa đày trong địa ngục cộng sản không biết đến ngày nào mới được giải thóat đầu thai...   
        
                                                                                                  Người Phương Nam