Thằng mõ là
người có nhiệm vụ gõ mõ và thông báo theo chỉ thỉ của các chức sắc
trong các làng xã cổ Việt Nam. Công việc của anh ta là đi khắp làng gõ
mõ gọi dân làng đến tề tựu ở sân đình để
nghe những tin tức mới xảy ra trong làng. Ngoài công việc trên, người
này có nhiệm vụ khác là tuần phòng ban đêm và gõ từng hồi mõ báo hiệu
giờ giấc dưới sự hướng dẫn của viên chức và các tráng đinh trong làng.
Người này làm việc này không có lương bổng. Tuy nhiên anh ta thường được
làng cấp cho một mảnh đất công nhỏ để cày cấy hoặc được đến mùa gặt thì
được các địa chủ cho một ít thóc.
Trên
thực tế, "thằng mõ" thường là một người rất nghèo và bị dân làng coi
thường thân phận. Song hoàng đế Lê Thánh Tông (1442 - 1497) đã từng làm
một bài thơ ngợi khen vai trò của "thằng mõ":
- "Mõ này cả tiếng lại dài hơi,
- Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi.
- Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,
- Kim thanh rền rĩ khắp đòi nơi.
- Trẻ già chốn chốn đều nghe lệnh,
- Làng nước ai ai phải cứ lời.
- Trên dưới quyền hành tay cắt đặt,
- Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi."
Tuy thân phận thấp hèn như vậy, nhưng "thằng mõ" xuất hiện khá nhiều trong các vở chèo cổ của Việt Nam.
Đứng
dưới góc độ nghiên cứu lịch sử về truyền thông đại chúng ở Việt Nam thì
"thằng mõ" được xem là phương tiện truyền thông sơ khai nhất trong xã
hội cổ truyền Việt Nam, "hệ thống truyền tin" này đã tồn tại đến giữa
thế kỷ thứ XX và đóng góp giá trị nhất định trong việc mang tin tức đến
cho dân làng.
Thằng Mõ có mặt ở nông thôn Việt Nam không biết từ bao giờ. Nhưng chắc chắn
là đã từ lâu. Vua Lê Thánh Tôn đã làm thơ nôm vịnh thằng Mõ :
là đã từ lâu. Vua Lê Thánh Tôn đã làm thơ nôm vịnh thằng Mõ :
Gớm thay lớn tiếng lại dài hơi
Làng nước ưng bầu chẳng phải chơi
Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi
Kim thanh rền rĩ khắp đôi nơi
Đâu đâu đấy đấy đều nghe lệnh
Xã xã dân dân phải cứ lời
Trên dưới quyền hành tay cất đặt
Một mình một cỗ thỏa lòng xơi.
Lời lẽ có vẻ kính trọng, ngược hẳn với địa vị của Mõ trong xã hội xưa. Mõ là một nhân vật không thể thiếu trong tổ chức làng xã.
"Dưới bọn tuần đinh, làng nào cũng có một người làm nô lệ chung cho cả hàng xã gọi là đạc phu.
Khi
nào trong làng có việc gì thì tên đạc phu phải đi mời mọc cả làng ra
đình hội họp. Hoặc có việc gì lễ dịch báo cáo cho làng biết thì đạc phu
gõ mõ đi rao suốt các ngõ. Nhà tư gia ai có việc hiếu hỉ hoặc có việc
giỗ kị muốn mời làng thì cũng sai đạc phu đi mời.
(...)
Đạc phu là một kẻ đê tiện hơn hết các loài người, chỉ những kẻ khốn khó
mới đi nơi xa khuất chịu làm nghề ấy mà thôi. Mà ai đã nhỡ phải bước ấy
thì con cháu về sau, muốn làm nghề gì mặc lòng, cũng không rửa được
tiếng xấu."
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp Đồng tháp, 1990).
Mõ
gần gũi mọi người, đáng lẽ phải được mọi người đối xử tử tế, thân mật,
nhưng không hiểu tại sao mõ lại bị khinh bỉ, chà đạp. Mõ bị coi là nhân
vật thấp nhất trong xã hội, chỉ có quyền cúi đầu để mọi người sai bảo.
Có
lẽ chính sự bất công và thiếu đạo đức của xã hội đã khơi dậy sự phản
kháng của giới văn nghệ sĩ. Nhiều tác giả bênh vực mõ, tạo ra những tình
huống bất ngờ để cho mõ đóng vai trò gỡ rối cho đám chức sắc trong
làng.
Mọi
người còn nhớ thằng Mõ của Ngô Tất Tố có tài băm thịt gà, xứng đáng với
danh hiệu nghệ sĩ. Chỉ có thằng mõ mới gánh nổi trách nhiệm chia phần
công bằng cho cả làng. Một con gà "một người ăn cố mới hết", được Mõ
chặt ra chia làm 23 cỗ, 83 suất. Không có "thiên tài" băm gà của Mõ,
làng nước sẽ khó tránh được những cuộc cãi nhau, tranh giành, thậm chí
hại ngầm nhau.
Nhưng
có lẽ giỏi nhất, thông minh nhất trong làng Mõ, thì phải gắn huy chương
vàng cho thằng Mõ làng Cổ Nhuế của Hồ Hữu Tường (tôi được đọc cuốn Phi
Lạc sang Tàu của Hồ Hữu Tường vào khoảng đầu thập niên 60, rất tiếc
không nhớ tên nhà xuất bản). Thằng Mõ được ông tiên chỉ của làng mời làm
cố vấn, giải quyết tất cả những chuyện rắc rối điên đầu. Mõ được sứ Tàu
bái phục sát đất.
Nam Cao cũng đưa ra một thằng Mõ, vốn hiền lành lương thiện nhưng bị xã hội làm cho xấu đi.
Tên Mõ từ đâu ra ?
Cho tới đầu thế kỷ 20, thằng Mõ còn mang tên là mộc đạc, rồi đạc phu.
Mộc
đạc nguyên nghĩa là cái chuông bằng đồng, có quả lắc bằng gỗ. Ngày xưa
dùng "mộc đạc" để đánh hiệu vào học. Do đó người ta gọi thầy học là mộc
đạc (Đào Duy Anh), hoặc đạc tư (Thiều Chửu), thầy giảng đạo gọi là đạc
đức (Huỳnh Tịnh Của).
Ta có thể suy ra rằng ngày xưa mõ làng còn dùng chuông, trước khi dùng mõ.
Đầu
thế kỷ 20, trong sách vở chưa có tên thằng Mõ. Ngược lại chữ mõ (chuông
mõ) đã có mặt và được định nghĩa là đồ dùng làm hiệu lệnh, bằng bộng
cây hoặc bộng tre. Chuông mõ là tiếng gọi chung đồ dùng của thầy chùa
(Huỳnh Tịnh Của).
Cái
mõ xuất hiện trước thằng Mõ. Nhưng có thể nào cho rằng gọi là thằng Mõ
vì nó gõ mõ không ? Chắc chắn là không vì chẳng có ai dám gọi nhà sư là
thằng mõ.
Muốn tìm nguồn gốc chữ Mõ chúng ta hãy tìm hiểu chính thằng mõ.
Phần
đông mõ làng là những người tha phương cầu thực, từ chỗ khác tới làng
kiếm ăn. Bị mọi người khinh rẻ. Làng xã chẳng cần biết và cũng không cần
tra hỏi lai lịch tên tuổi. Chỉ cần nói thằng mõ, ai cũng biết nhân vật
được nói tới.
Sách
vở xưa dùng chữ "mỗ" để gọi những người không biết tên. Chữ mỗ là đại
danh từ không chỉ rõ cái gì, người nào, được dùng khá phổ biến.
Phạm
Đình Hổ và Nguyễn Án (Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên,
Sài gòn, 1962), đưa ra một loạt các ông bà Mỗ : ông liệt sĩ Mỗ (họ tên
chưa thể tra xét được), bà mẹ phu nhân Mỗ. Thầy địa lý Tả Ao là ông Mỗ,
người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Ông thượng thư Nguyễn Văn
Giai thuở nhỏ học ông Thái học sinh Mỗ.v.v..
Có thể cho rằng chữ Mõ, chỉ một người không tên tuổi, là từ chữ Mỗ mà ra.
Xét về chức năng thì công việc của Mõ là mời làng đi họp và báo tin của làng đến mọi nhà.
Mời ai, tìm ai, tiếng hán việt là "Mộ". Chữ mộ có thể đã được chuyển qua chữ nôm thành mõ.
Mõ
là người đi mời (mộ) làng nước. Về sau các đồ vật được mõ dùng, hoặc
các đồ vật được dùng để làm hiệu lệnh, để rao gọi, đều được gọi là mõ. -
điếm làng có cái mõ cá làm bằng đá tạc hình con cá. Tấm sắt cầm canh
(chữ hán việt là thác) cũng được gọi là mõ canh. Nhà sư lúc tụng niệm
chú tâm dùng mõ làm hiệu lệnh, giữ nhịp.
Bài thơ Thác thi (Vịnh cái mõ) của Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu :
Điêu đẩu thiên cao dạ chuyển canh.
Được dịch là :
Trời cao, tiu kẻng, đêm dời canh.Và được chú thích rằng "Điêu là cái kẻng (xưa gọi là cái tiu), đẩu là cái đấu dùng trong quân đội để đong gạo nhưng cũng dùng để gõ làm hiệu lệnh. Điêu và đẩu đều dùng như kẻng và mõ trong quân đội". (Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà Nội, 1983).
Tóm
lại, thằng Mõ, người đi mời mọi người trong làng, là do chữ mộ (mời)
hoặc chữ mỗ (không tên tuổi) mà ra. Và đồ nghề của Mõ thì được gọi là
cái mõ. Cái mõ có thể được làm bằng gỗ, bằng tre, bằng gạch đá hay bằng
sắt.
Nguyễn Dư
Tết Kỷ Mão 2-1999.
Tết Kỷ Mão 2-1999.