Monday, November 17, 2014

CHIẾC NÓN LÁ VÀ CHIẾC ÁO BÀ BA ( Kim Chi Sưu Tầm )




                       CHIẾC NÓN LÁ 




“Nón nầy che nắng che mưa
Nón nầy để đội cho vừa đôi ta”



Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của phụ nữ Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.




Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

- Nón dấu: Nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa
- Nón gò găng hay nón ngựa: Sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa.
- Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng.
- Nón quai thao: người miền Bắc thường dùng trong lễ hội.
- Nón cời: Nón rách
- Nón gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa.
- Nón lá sen: Cũng gọi là nón liên diệp.
- Nón thúng: Thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.
- Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa.
- Nón chảo: Thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng.
- Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang.
- Nón bài thơ: Ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ v.v…



Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón.



Với cây mác sắc, người làm nón chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành. Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng.



Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón?



Vật liệu làm nón tuy đơn sơ nhưng khó tìm loại lá làm nón, lá mọc ở những vùng núi, sau nầy người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên Du Quy Diệp là lá làm tơi thời gian văn minh chưa phát triển, người ta dùng loại lá nầy làm cái tơi để mùa đông chống mưa gió. Một loại khác là Bồ Quy Diệp là loại mỏng và mền hơn để làm nón lá.



Ngày nay dù đã phát triển nhưng trên những cánh đồng lúa xanh tươi ngoài Bắc, trong những trưa hè nắng gắt, người ta còn dùng lá tơi để che nắng, giống như con công đang xòe cánh.



Người ta chặt lá nón non còn búp, cành lá nón có hình nan quạt nhiều lá đơn chưa xoè ra hẳn phơi khô, cột lại thành từng bó nhỏ gánh bán cho những vùng quê có người chằm nón. Ở Quảng Nam ngày xưa vùng Bà Rén chuyên buôn bán nón lá, từ đó phân phối đến các chợ như chợ Hội An, có khu bán nón lá nhiều loại.



Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người mua phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn vì khô, mở lá từ đầu tới cuồng lá, cắt bỏ phần cuối cùng, dùng lưỡi cày cũ hay một miếng gan, đặt trên nồi than lửa nóng đỏ, dùng cục vải nhỏ độn giống như củ hành tây, người ta đè và kéo lá nón thẳng như một tờ giấy dài màu trắng, có nổi lên những đường gân lá nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón.



Người ta dùng cái khung hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, có 6 cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài 16 cái vành nón tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung. Cái khung nầy phải do thợ chuyên môn làm kích thước đúng cỡ khi lợp lá và chằm nón xong, tháo nón ra dễ dàng.



Nón thường chỉ 16 vành tròn làm bằng tre cật vót nhỏ đều nhau nối lại, Nón bài thơ nhẹ mỏng chỉ 2 lớp lá trong chen hình cảnh và các câu thơ, nón thường độ bền lâu hơn dày có 3 lớp phần trong lót thêm loại lá đót, (loại cây nầy giống cây sậy, khi trổ bông người ta lấy bông làm chổi) Chằm xong nón tháo khỏi khung, cắt lá thừa nức miệng nón và làm quai, nón rộng đường kính thường 41 cm, người ta phết phiá ngoài lớp mỏng sơn dầu trong suốt nước mưa không thấm qua các lỗ kim vào bên trong. Để có được một chiếc nón, phải trải qua 15 khâu, từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ…



Thời gian chưa có chỉ cước người ta dùng bẹ lá cây thuộc loại thơm (hùm) tước lấy phần tơ ngâm nước vài ba ngày cho nát phần thịt của lá, dùng bàn chải, chải lấy phần tơ dùng làm chỉ để chằm nón, hay dùng chỉ đoác. Nhưng sau nầy phát triển người ta dùng cước nhỏ bằng nylon, chằm nón có đường nét thanh nhã hơn. Nón lá đã đi vào thi ca bình dân Việt nam:

“Nón em chẳng đáng mấy đồng,
Chàng mà giật lấy ra lòng chàng tham
Nón em nón bạc quai vàng
Thì em mới dám trao chàng cầm tay
Tiếc rằng vì nón quai mây
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm”


Nón quai thao, hay nón thúng các cô gái Bắc thời xưa chưa chồng thường dùng, ngày nay đến Hà Nội không còn thấy ai đội nón quai thao, trên đường phố cổ trầm mặc dưới bóng cây cổ thụ, thiếu nữ Hà Nội che dù màu, đội mũ lát, đội mũ tân thời, nhưng vào thăm Văn Miếu sẽ thấy trình diễn văn hoá, hát quan họ, các cô đều trang sức giống như thời xưa với chiếc nón quai thao.



Thuở xưa, con gái sau khi lập gia đình, bổn phận làm vợ, làm mẹ, họ chỉ chú trọng đến niềm vui tận tụy làm tròn bổn phận trong gia đình, xao lãng những vẻ đẹp bề ngoài.

“Chưa chồng nón thúng, quai thao
Chồng rồi, nón rách, quai nào thì quai…”
Thân phận của những bóng hồng khi về chiều nhan sắc tàn phai:
“Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong”




Dáng dấp con gái Việt Nam mềm mại, dịu dàng, nếu trên đầu nghiêng nghiêng vành nón trắng. Nụ cười, ánh mắt giấu sau vành nón ấy mới cơ hồ e ấp, rạo rực vì những bâng khuâng…
Mỗi thiếu nữ đều có một cái duyên để làm say đắm người khác phái. Nhưng tựu trung, nhan sắc của các nàng cũng không ngoài những điều đã được ca dao truyền tụng. Có nàng đẹp nhờ mái tóc thề hay cắt ngắn, đôi chân mày cong vòng như vầng trăng non dưới vành nón lá:

“Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón
Chiều mùa thu mây che có nắng đâu
Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh màu
Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt
Còn ta mắt anh…
Có sao đâu mà em phải cúi đầu từ khước
Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước
Thì mười ngón tay em sao bỗng quấn quít đan nhau
Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào
Đôi chân bước… anh nghe chừng sai nhịp.”





Ở Huế, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng từ xa xưa cho đến bây giờ như: Phú Hồ, Phước Vĩnh, Dạ Lê, Triều Sơn, Nam Phổ, Kim Long, Dương Nỗ, Tân Mỹ, Hương Sơ, Mỹ Lam, làng Chuồn, bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế làm nón bài thơ dáng thanh mảnh, độ mỏng, màu nón nhã nhặn người ta còn cắt những bức tranh với chùa Linh Mụ, cầu Trường Tiền, con đò trên sông Hương… và đặc biệt nhất là vài câu thơ chất chứa tâm hồn xứ Huế:



“Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình”




“Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Nguyễn Khoa Điềm
“Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay”


Những chiếc nón bài thơ thường trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ. Lựa nón, lựa quai, cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề:

“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”


Nón bài thơ hiện hữu trên khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của phụ nữ Huế, dùng nón lá nâng hay đựng xoài, cũng tạo nên nét đẹp mỹ miều.



“Anh về Bình Định ba ngày
Dặn mua chiếc nón lá dày không mua”


Nón bài thơ đặc sản Huế, nón Gò Găng ở Bình Định còn gọi là nón ngựa làm bằng vành tre cật, chuốt nhỏ như tăm, đan thành ba lớp mê sườn; bên ngoài phủ lớp lá kè non, chằm bằng những đường chỉ tàu trắng muốt và đều đặn. Trên đỉnh chóp được gắn chụp bạc hoặc đồi mồi có chạm trổ long-lân-qui-phụng. Quai nón được làm bằng lụa xanh hoặc đỏ, bản rộng và đều người ta chằm một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời dày công nhọc sức. Vì vậy giá thành rất đắt, nó chỉ dành cho những người cao sang quyền quí, những chức sắc quan lại của triều đình. Dần dần theo nhu cầu của giới bình dân, nón ngựa được cải biên thành ngựa đơn rồi nón buôn, nón chũm, rẻ hơn nhiều. Các loại này đều không có chụp bạc, nó được thay bằng những tua ngũ sắc ở chóp nón cho đẹp. Ở các vùng làm nón, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể thì đội nón đi ngựa; còn những nhà nghèo cũng ráng sắm đôi nón ngựa cho cô dâu chú rể đội đi trong ngày cưới. Vậy nên có câu ca dao:

“Cưới nàng đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn”




Ngày nay các cô gái làm nón hầu như không còn giữ được phương pháp làm nón ngựa nữa. Họ quen với công đoạn nhanh, giản tiện và dễ tiêu thụ của chiếc nón trắng mảnh mai - một sản phẩm của quá trình cải cách lâu dài. Để làm loại nón này phải qua nhiều công đoạn. Vấn sườn, lợp lá, chèn lá, chằm và nức. Việc làm lá đòi hỏi nhiều tính tỉ mỉ và kinh nghiệm lâu năm.



Nghề nón là thuộc thị trấn Gò Găng, Nhơn Thành - An Nhơn. Nơi đây có một chợ nón lớn họp thường ngày từ 3-4 giờ sáng. Cứ hết một đợt làm được 25-30 chiếc thì bà con các vùng phụ cận lại mang nón đến bán và mua sắm vật liệu cho đợt sau. Mỗi tháng Gò Găng có thể cung cấp cho cả nước 50,000 chiếc nón. Gần đây nón Gò Găng còn được xuất cảng sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia dưới dạng cải biên cho hợp với xứ người. Như vậy, từ vùng núi cao nguyên mưa nguồn gió dữ cho đến các miệt vườn miền Nam:

“Nhớ nón Gò Găng
Vầng trăng đập đá
Sông dài sóng cả
Người quân tử,
Khăn điều vắt vai…”


Đời sống văn minh, phát triển nhưng nón lá Việt Nam vẫn thuần túy nguyên hình của nó. Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay… 






CHIẾC ÁO BÀ BA



Thuở ấu thơ chạy nhảy mệt nhoài trên những triền đê, tôi vẫn được mẹ cho mặc áo bà ba màu nâu gụ, quần lụa đen, mẹ bảo "đỡ... phí". Tôi không hiểu "phí" theo ý mẹ là gì, chỉ biết rằng mặc bộ bà ba thì thích lắm, tha hồ nghịch ngợm, lăn lê với đám bạn quê mà không lo áo bẩn về mẹ mắng. Tôi lớn lên ở thành phố, chỉ mỗi độ hè râm ran trong tiếng ve trốn nắng mới có dịp gặp cái Thu, cái Huệ, thằng Tí, thằng Kèo, "bám đuôi" chúng nó đi chăn trâu mỗi buổi chiều phai nắng. Ông tôi mất sớm, nhà chỉ có bà sớm tối quanh ra quanh vào, nhưng trong ký ức của tôi ba gian nhà gỗ chẳng bao giờ quạnh vắng, phải chăng vì đám cái Thu, cái Huệ, thằng Tí, thằng Kèo thường ghé qua chơi, quét sân, tưới cây và hái trái ngọt trong vườn nên nếp nhà neo người được ấm cúng, rộn rã đến vậy?
Bà tôi chẳng mặc áo hoa bao giờ, cả đời bà chỉ quen áo bà ba - quần lụa đen bạc màu sương gió. Mẹ tôi may tặng bà nhiều đồ đẹp, bà đều cất gói cẩn thận trong rương gỗ. Bà bảo tôi: "Phụ nữ chân lấm tay bùn, chẳng gì bằng bà ba". Lúc đó tôi nghĩ bà ba là trang phục dành riêng cho các bà, các mẹ và đám trẻ nhỏ chúng tôi mặc "lao động", không hề đẹp hay đáng quý. Chỉ khi lớn lên rồi, chất đầy trong tủ áo quần muôn kiểu mốt, tôi mới nhớ đến nao lòng cảm xác thoải mái khi xỏ mình trong bộ bà ba sờn đường chỉ nhỏ năm xưa.
Tôi yêu phim và đặc biệt thích các tác phẩm điện ảnh Việt sản xuất những năm 70, 80 thế kỷ trước. Xem phim, được sống với một giai đoạn của lịch sử đất nước đã đành, được ngắm các diễn viên Lê Vân, Thúy An đằm thắm, dịu hiền trong dáng áo bà ba càng hay gấp bội. "Cánh đồng hoang", "Bao giờ cho đến tháng 10" rồi sau này là "Người đẹp Tây Đô", "Đất Phương Nam" cho tôi cái nhìn rộng mở về người phụ nữ Việt tần tảo, một nắng hai sương nhưng vẫn toát lên vẻ dịu hiền, đằm thắm. Họ chẳng viện nhiều son phấn, cũng không diện áo váy thời thượng, chỉ bộ bà ba thôi mà sao đẹp đến thế, thanh lịch đến thế.


Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 1
Áo bà ba nhưng trẻ con cũng mặc...
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 2
Diễn viên Lê Vân và vẻ đẹp dịu hiền với áo bà ba trong "Bao giờ cho đến tháng 10".
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 3
Hình ảnh đẹp của diễn viên Thúy An trong "Cánh đồng hoang".
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 4
Áo bà ba góp phần khắc họa thành công chân dung người phụ nữ Việt đảm đang, tảo tần trong năm tháng chiến tranh.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 5
Áo bà ba tôn lên vẻ đẹp đằm thắm, ấn tượng của diễn viên Thúy An.

Tìm hiểu về nguồn cội trang phục giản dị nhưng thân thương quen thuộc này, tôi bất ngờ khi biết có thể áo bà ba xuất phát từ tộc người Bà Ba ở Malaixia. Trong cuốn "Văn minh miệt vườn" (1970) nhà văn Sơn Nam có viết: "Sự liên lạc giữa Cái Mơn và Mã Lai đem cho miệt vườn nhiều loại cây mới: măng cụt, bòn bon, chôm chôm. Poulo Penang, nơi ông Trương Vĩnh Ký du học, là nơi có nhóm người Bà Ba lập rẫy mía. Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa (chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba)"
Ở miệt vườn, ở miệt Hậu Giang thời Pháp thuộc, cái áo dài đàn ông không được thông dụng cho lắm. Kiểu quần áo bà ba là tiện lợi nhứt, đồng thời quần áo bà ba cũng tiêu biểu cho sự trang nghiêm trong giới trung lưu... Áo bà ba gọn gàng, cởi ra mặc vào dễ dàng, giúp con người đi đứng khoan thai, ít câu thúc"
Có lẽ trải qua quá trình "chọn lọc" cho hợp với văn hóa, xã hội và đặc tính dân tộc nên áo bà ba hiện giờ của Việt Nam mang những nét độc đáo riêng chăng?
Áo bà ba xuất hiện trong thơ ca nhiều, trong âm nhạc cũng chẳng ít, nổi tiếng nhất có lẽ là nhạc phẩm "Chiếc áo bà ba" của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Lời thơ giản dị, giai điệu nhẹ nhàng êm ái "Chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm, thấp thoáng con thuyền bé nhỏ mong manh..." nhưng để lại trong tâm hồn người nghe những xúc cảm day dứt, lưu luyến khôn nguôi.
Áo bà ba truyền thống toát lên vẻ giản dị, mộc mạc, vẻ đẹp tự nhiên trong trẻo cho mặc. Ngày nay với nhiều cách tân trong dáng áo và họa tiết, áo bà ba tôn nét yêu kiều mộng mơ nơi phái đẹp. Thay vì chất liệu vải lon, satin trắng hay gấm cổ điển, áo bà ba hiện đại còn được tạo nên từ lụa và voan hoa. Không nức tiếng năm châu như áo dài, nhưng áo bà ba cũng là một phần "hồn" làm nên diện mạo đằm thắm, dịu hiền đáng quý của người phụ nữ Việt từ bao đời nay.
Ghé thăm chợ nổi vùng sông nước miền Tây, có thể dễ dàng bắt gặp bóng dáng chị Hai, cô Ba nền nã áo bà ba gấm trắng đon đả mời mọc hoa quả, bánh trái chất đầy ghe. Hay một ngày nhạt nắng về thăm miền quê luá Thái Bình, sẽ thấy thấp thoáng nơi cánh đồng xa tấm lưng khom tảo tần trong áo bà ba vun cho cây lúa trĩu bông. Ngắm đấy, để rồi lại nhớ nhớ thương thương về một mảnh hồn của trang phục dân tộc...


Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 6
Vẻ đẹp phụ nữ miền sông nước Nam bộ.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 7
Trong cuộc sống hiện đại, áo bà ba - quần lụa đen trở thành phục trang đóng phim, diễn văn nghệ được sử dụng nhiều.

Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 8
 Áo bà ba xuất hiện cả trong các cuộc thi nhan sắc.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 9
Áo bà ba trên cánh đồng lúa trĩu bông.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 10
Sắc áo đỏ thắm tôn lên vẻ yêu kiều cho người đẹp.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 11
Áo bà ba chất liệu satin mang đến vẻ trang nhã, thanh lịch được nhiều chị em chọn lựa.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 12

Dáng áo bà ba hiện đại được có vạt áo dài hơn trước kia, điểm xuyết hoa văn điệu đà rực rỡ.

Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 14
Người đẹp với áo bà ba bên hoa sen thanh tao, trong trẻo.
Áo bà ba có nguồn gốc từ... Mã Lai? - 15
Áo bà ba hồng cho sắc hương thêm thần đằm thắm, ngọt ngào.