Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã.
Cố HT. Thích Tố Liên
|
Ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy.
Đọc
kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người
Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn,
không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua
Hoàng đế (267 tr. TL) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong
việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương
sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời
Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế.
Nối
nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất
sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo
v.v... để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí,
hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn
người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy.
Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người
chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo
người chết. Đến đời nhà Ân (1765 tr.TL), lại không dùng mâm bát đồ đất
và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa, họ dùng toàn đồ
thật chôn theo.
Đến
đời nhà Chu (1122 tr.TL), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố
nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, người
chết đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn
trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi
chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ
nhà Ân để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình
dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người
hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội
"tiếm lễ".
Không
những thế, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những
"tuẫn táng"; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến
bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn
sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết. Sách Tả Truyện
chép: "Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân
chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn
sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ
Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa
mai. Trong thơ đại ý nói: Ba anh em họ Tứ xa đều là những người hiền đức
gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ
đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người
như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền
đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay".
Về
sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết là vô
nhân đạo, mới chế ra người cỏ Sô Linh, sau vì người cỏ không được mỹ
thuật, người ta lại dùng đồ gỗ "Mộc ngẫu" như trước. Sách Trang Tử chép:
"Vua Mục vương nhà Chu (1001 tr. TL) có người tên là Yến Sư chế ra
người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền
than rằng: Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất
nhân. Thầy Mạnh Tử cũng đau buồn với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền
một câu rằng: Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự".Đến thời nhà Hán,
giới trí thức Nho học cảm động với lời tuyệt cự thống thiết của ngài
Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người sống
chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ "tuẫn táng", không dùng người
sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ,
con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các thức đồ ăn mặc... của
người chết kia, khi còn sống dùng những thứ gì, khi chết cũng đem chôn
theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng
đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quang phần mộ.
Từ
đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt
đầu lấy cỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đã có giấy,
ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v... đều bằng đồ giấy để
cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang
ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục chép: "Vì vua Huyền Tôn mê thuật
quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc
chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương
Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được".
Trong
Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên.
Thế thì tại sao ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo,
mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên?
Nguyên
nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này: Vào thời vua Đạt
Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị
sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục
đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: rằm tháng Bảy là
ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông
sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên
đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng.
Vua
Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo
Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp
thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên.
Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì
cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái
lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa
hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà
chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là
người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã.
Thất
nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục
hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin
chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào
quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm
làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của
ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra
cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân
phủ. "Chà! Chà! Phép quỷ thần mầu nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ!" -
khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một,
trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động
lên.
Bấy
giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng
lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan
tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện
với công chúng rằng: "Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được
hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba
hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế". Công chúng lúc đó ai
cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần
trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm
tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh
chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng
vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu
dùng đồ, thì nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng
ở sách Trực Ngôn Cảnh Giáo.
Như
thế, chúng ta nên thẳng thắng nhìn nhận rằng: "Bịa đặt ra tục mê tín,
dị đoan, làm hình nhân thế mạng vào lễ tam, tứ phủ để đầu độc mê tín đến
ngày nay là bắt đầu từ người Vương Luân. Người Trung Hoa đã bị cái bả
mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến nay đã được 1847 năm
(1052-1952). Dân tộc Việt Nam chúng ta mê tín cũng chẳng kém thế, nhưng
vì trước đây, chúng ta bị họ đô hộ hơn 1.000 năm. Phong tục của người họ
như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận
hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là do cái tính cẩu thả, phụ họa của
người mình.
Nếu chúng ta đã
thừa nhận tinh thần của dân tộc Việt Nam đều nhờ Phật giáo và Nho giáo
đào tạo nên, vậy thì xin hỏi giới trí thức Việt Nam: hiện tại có ai tìm
thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào?
Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy,
một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi,
và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy. Chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ
mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho
chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy.
|