Là đền nổi tiếng và lớn nhất trong quần
thể Angkor: Angkor Wat. Angkor là từ đọc trại từ chữ nokor
nghĩa là thành phố (bắt nguồn từ chữ Sanskrit nagara).Tôi rất xúc động khi nhìn
thấy đền từ xa. Angkor huyền bí và mầu nhiệm mà bao lâu nay tôi đã tưởng tượng trong
đầu và mong sao có dịp được thăm viếng và chiêm ngưỡng nay đã trong tầm mắt và
chỉ trong vài phút nữa sẽ được chiêm ngưỡng vẽ đẹp hung vĩ của nó rồi.
Cách đây 156 năm, vào năm 1858 nhà thực
vật học và thám hiểm Pháp Henri Mouhot đã khám phá ra Angkor đang chìm đắm
trong rừng rậm từ bao thế kỷ. Đền bị các cây cổ thụ mọc phủ kín, rể cây khổng
lồ chen vào các khe hở kiến trúc đá qua nhiều thế kỷ đã tàn phá đền. Trước cảnh
hoang tàn âm u của các kiến trúc từ một nền văn minh chưa ai biết, chìm sâu
trong rừng rậm từ lâu. Mouhot đã xúc động và viết một bài mô tả trong nhật ký,
sau này in lại trong sách của ông “Voyages dans les royaumes du Siam du
Cambodge et du Laos”. Sách này được xuất bản sau khi ông mất vì bệnh sốt rét
năm 1861 trên sông Mekong gần Luang Prabang. Như số phận trước đây của Angkor,
mộ ông bị bỏ hoang biến mất trong rừng rậm và chỉ tình cờ tìm lại được vào năm 1990.
Sau khi Mouhot mất, nhật ký của ông
được mang về Bangkok và trao lại cho vợ ông. Tạp chí “Le Tour du Monde”, năm 1863 đã trích
từ nhật ký một chương giới thiệu và mô tả khám phá Angkor của ông. Việc nầy đã
kích thích óc tò mò, sự khao khát khám phá và tìm hiểu ở nhiều nơi trên thế
giới. Nhà thám hiểm Louis Delaporte sau đó đã đến Angkor nghiên cứu, vẽ hoạ đồ
các kiến trúc và mang về Paris một số hiện vật (nay trưng bày ở viện bảo tàng
Guimet).
Mouhot không phải là người ngoại quốc
đầu tiên tìm ra lại được Angkor. Trước ông rất lâu gần 3 thế kỷ là các giáo sĩ
người Bồ Đào Nha. Một trong những người đầu tiên đó là Antonio da Magdalena,
đến Angkor năm 1586.
Nhưng trước cả các giáo sĩ Bồ Đào Nha
là sứ giả Trung quốc Châu Đạt Quan đã có mặt ở Angkor vào thế kỷ 13, lúc Angkor
chưa bị bỏ hoang. Ông đã chứng kiến sinh hoạt của một xã hội phong tục tập
quán, vua chúa và đền đài. Đó là tư liệu duy nhất vô cùng quí giá về vương quốc
Angkor.
Ngày nay Angkor Wat không còn khó khăn
đi đến nữa, các khoảng đất rộng trước cửa cầu đá đi vào cổng phía tây của đền
Angkor Wat bây giờ là bãi đậu xe và có rất nhiều hàng quán phục vụ khách du
lịch đến từ khắp mọi nơi. Từ cửa tây Angkor Wat thẳng ra về hướng tây khoảng
vài cây số là phi trường Siem Reap, nằm phía dưới hồ nhân tạo rất lớn gọi
là “Baray Tây” (Western Baray) của quần
thể Angkor. Tuy vậy khi đã đến Angkor Wat, du khách cũng sẽ có các ấn tượng
không kém ngạc nhiên như những người đi trước đầu tiên khám phá ra Angkor, đi
vào một thế giới khác ngoài sức tưởng tượng của họ. tôii tự hỏi: làm sao người
xưa có thể tạo dựng những công trình kiến trúc bằng đá hùng vĩ như thế ngay
trước mắt mình?
Đường vào đền Angkor Wat là đoạn cầu đá
dài băng qua một hào nước bao quanh 4 phía chung quanh Angkor Wat. Đền Angkor
Wat hình chữ nhật, chiều dài 1,500m, chiều ngang 1,300m, kể cả hào nước xung
quanh rộng 190m. Đây là đền lớn nhất trong quần thể Angkor. Theo các nhà học
giả Finot, Coedes, Bosh thì đền được xây dưới thời vua Suryavarman II để làm mộ
thờ của vua. Vì thế hướng của đền là về phía tây và đền với các điêu khắc theo
truyền thuyết thần Visnu chứ không đặt trọng tâm vào thần Shiva như ở các kiến
trúc khác hay cung điện vua.
Angkor Wat thể hiện núi Meru, trung tâm
vũ trụ : Angkor được xây dựng trên ba tầng đại diện cho đất, nước và gió mà núi
Meru dựa vào và nước ở hào chung quanh đền thể hiện cho đại dương trong vũ trụ.
Trong ba tầng của Angkor Wat thì tầng cao nhất là trung tâm đền với tháp cao
nhất có 7 vòng tượng trưng cho 7 vòng núi thiêng Meru.
Một kỳ quan kiến trúc như Angkor Wat
được xây bởi một nhà vua có tầm vóc trong lịch sử Khmer. Suryvarman II (1113-1150
AD) là vị vua hùng mạnh có công mở rộng vương quốc Khmer. Ông là một trong hai
đại đế trong triều đại Angkor. Vị vua thứ hai là Jayavarman VII, người đã xây
dựng Bayon ở Angkor Thom. Ngoài Angkor Wat, Suryvarman II còn xây các đền
Thommanon, Chao Say Tevoda, Banteay Samre ở Angkor, Beng Mealea (cách Angkor
60km về hướng đông), Phimai (ở Thái Lan hiện nay).
Dọc hai bên cầu đá đi vào đền xưa kia
là các tượng thần và tượng ác quỷ ở mỗi bên ôm thân rắn naga kéo giành giật
nhau tạo ra vũ trụ. Trước đây có tất cả 54 tượng thần và 54 tượng ác quỷ ôm
thân rắn ở mỗi bên đường, nay chỉ còn lại một vài tượng mà thôi. Theo Mannikka thì con số 108 của tổng số các tượng là số
thiêng liêng của tôn giáo và văn hoá Ấn độ (108 cũng là số lần hiện thân của
thần Vishnu, Shiva).
Qua cổng chính ở tường ngoài của đền,
du khách bắt đầu vào khuôn viên tầng nhất Angkor Wat. Đây là hành lang với kiến
trúc chữ thập nằm chính giửa.Tại đây chúng tôi thấy có nhiều tượng Phật vẫn còn
được thờ cúng. Rẻ vào phía trái về hướng bắc đến cửa ra hành lang là nơi mà
theo truyền thống thì du khách có thể đứng dựa vào tường, vổ ngực mình sẽ để
nghe âm vang và nếu có ước nguyện gì sẽ được toại nguyện. Tôi đứng dựa vào cổng
tường, ngước mắt nhìn lên trần và vổ ngực! quả thật có âm vang dội lại. Gần đấy
có một kiến trúc gọi là “thư viện”. Toà nhà “thư viện” nằm trong sân ở tầng một,
ngoài hành lang gần tường ngoài của Angkor Wat .
Để đến tầng thứ ba của đền Angkor Wat,
chúng tôi phải bước đi lên những bực đá rất dốc và rất nguy hiểm nếu không cẩn
thận. Sự khó khăn này là ngụ ý của người xây đền cho người ta biết rằng để đi
lên được “vương quốc của các thần” không phải dễ. Tầng thứ ba gồm hai hành lang
chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giửa. Ở điểm giao tiếp của hai hành lang là
trung tâm đền Angkor Wat.
Xưa kia trung tâm đền có tượng thờ bằng
vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng
thờ Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor Wat, chung quanh tháp là
bốn hành lang hình vuông. Ở mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và
bốn tháp chung quanh tạo thành toà chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta
nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn viên đền.
Muốn cảm nhận được Angkor Wat có sức
huyền bí như thế nào thì du khách nên đợi đến hoàng hôn. Angkor Wat dưới ánh
hoàng hôn, đền với các tháp và đá trở thành vàng đỏ rực ẩn hiện dước bóng cây
thốt nốt. Đôi khi lúc hoàng hôn xuống, du khách sẽ thấy cảnh hàng ngàn con dơi
bay quanh đền và trên bầu trời Angkor. Sau khi viếng thăm Angkor Wat, không một
du khách nào mà không có ấn tượng và bị ảnh hưởng trước kỳ công huyền bí của
một nền văn minh đã biến mất. Gần một thế kỷ trước đây, một du khách người Mỹ
đã yêu cầu khi bà mất thì hài cốt của bà xin được rải ở cầu đá dẩn vào đền
Angkor Wat, năm 1936 ước nguyện của bà đã được toại nguyện.
Ta cũng có thể hiểu được vì sao tài tử
Angelica Jolies sau khi đến Angkor đóng phim “Tomb Raiders” đã bị thu hút và
trở thành công dân danh dự và sứ giả cho đất nước Cambodia, và cô có một con
nuôi là người Khmer.
Sau Angkor Wat, chúng tôi đi thăm
Angkor Thom kế cạnh Angkor Wat. Đường vào qua cửa Nam của Angkor Thom rất ấn
tượng với hai bên là các tượng thần ôm thân con rắn 7 đầu, dài vài trăm thước
dọc hai bên cửa vào thành phố xưa Angkor Thom.
Trung tâm của thành phố Angkor Thom là
đền Bayon, với bốn cửa theo bốn hướng. Kế Bayon về phía tây bắc là cung điện vua
Phimeanakas, từ đó cũng có một trục chạy về phía đông ra một cửa nửa gọi là cửa
“chiến thắng”.
Angkor Thom có hai trung tâm thể hiện
hai thời kỳ lịch sử xây dựng khác nhau khi hình thành Angkor Thom. Khi Mouhot
đến đây thì Angkor Thom nằm trong rừng rú với cây cao, dây leo khắp nơi không
thể nào biết là có thành phố, đền, điện cổ trong đó. Rất khó khăn để đi vào đến
nơi, tuy nhiên sau đó Mouhot đã ngở ngàng trước các tháp mà trên đó ở bốn hướng
là tượng mặt người mĩm cười huyền bí giửa cảnh đổ nát trong rừng thẳm và bây
giờ là vị trí của điện gọi là Bayon.
Các điêu khắc ở trên một số bệ đá chung
quanh các tháp mô tả các huyền thoại, cảnh chiến trận và cảnh đời sống xã hội văn hóa của một nền văn
minh đã biến mất mà không ai biết rỏ. Phải mất một thời gian nghiên cứu lâu năm
sau này qua các các bia ký còn sót lại, người ta mới biết được tượng mặt người
huyền bí trên các tháp của Bayon là bodhisattva Avalokitesvara Samanthamukha
biểu tượng cho vua Jayavarman VII. Angkor Thom được Jayavarvan VII xây dựng sau
Angkor Wat gần 100 năm.
Đặc biệt ở Bayon so với các nơi khác là
sự hiện diện trội hẳn của ảnh hưởng Phật giáo Mahayana cũng không lạ gì vì
người tạo Bayon và xây dựng nhiều nhất ở Angkor Thom là vua Jayavarman VII, vị
vua theo phật giáo Mahayana. Dưới triều vua Jayavarman VII, Angkor đã đến tuyệt
đỉnh và được thể hiện trên kiến trúc, nghệ thuật và quyền lực. Sau Jayavarman
VII, Angkor bắt đầu suy sụp và cuối cùng điêu tàn lại còn bị bỏ trống sau khi
bị quân Xiêm tàn phá.
Từ xưa đến nay Angkor Thom có ấn tượng
với du khách đến thăm không kém gì sức mạnh huyền bí của Angkor Wat. Giửa quang
cảnh đổ nát và đi quanh những tảng đá lớn nằm ngỗn ngang ở Bayon, nhìn lên khắp
nơi mọi hướng lúc nào ta cũng thấy tượng đầu người mĩm cười hiểm bí trên các tháp
nhìn ta như muốn cho ta biết là tất cả đều vô thường trên thế giới này. Tại đây
có tổng cộng 256 gương mặt đá trên 54 tháp nhìn khắp hướng ở Bayon.
Cấu trúc đền Bayon gồm ba tầng và cả ba
tầng đều bị hư hại đổ nát với gạch đá
nằm ngỗn ngang. Năm 1924, Henri Parmentier (nhà khảo cổ Pháp, người thành lập
ra viện bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng) đã tìm được một tượng bồ tát Lokesvara ở
Bayon. Sau này trong lòng trung tâm Bayon, một tượng Phật lớn cũng được tìm ra.
Điều này chứng tỏ Bayon là đền thờ Phật giáo chứ không phải Ấn giáo như người
ta nghĩ lúc ban đầu.
Trên một số các bệ đá làm nền chung
quanh tháp Bayon ở tầng một là các điêu khắc tuyệt tác. Những bức tranh phù điêu
tạc trên đá mô tả rất sống động cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, trận thuỷ
chiến giửa quân Khmer, Chàm, Xiêm, cảnh người Hoa buôn bán và các sinh hoạt ở
chợ búa. Ta hảy tưởng tượng hình ảnh sống động nầy khi sứ giả Trung Hoa Châu
Đạt Quan (Zhou Daguan) của nhà Nguyên Mông cổ có mặt tại Angkor trong năm
(1296-1297).
Cạnh Angkor Thom Bayon là đền Baphuong
nổi tiếng, xưa kia đền Baphuon xây trên một ngọn đồi rất lớn hùng vĩ chỉ sau
Angkor Wat trong quần thể Angkor. Trong 9 năm liền, kiến trúc sư Pascal Rogère
của trường Viễn Đông Bác Cổ đã làm việc và lui tới trong khu vực Baphuon. Ông
hầu như biết từng phiến đá ở đây. Có khoảng 300,000 tảng đá nằm ngỗn ngang
quanh đền và trong rừng chung quanh khu vực đền đã được phân loại, đánh số để
tái phục và kiến tạo lại cấu trúc đền Baphuong
.
.
Cung điện hoàng gia Phimeanakas, nay
hầu như chỉ là bãi đất trống nằm giửa một số tường thành còn sót lại. Trong khu
hoàng gia còn hai hồ nước lớn gọi là Srah Srei và Srah Bros nơi xưa kia vua và
cung nữ trầm mình tắm. Ngồi trên bậc đá của bờ hồ, xung quanh vắng lặng với
tiếng lá reo xa xa làm cho tôi tưởng tượng trước mặt là cảnh bầy cung nữ trầm
mình trong nước xung quanh nhà vua. Đâu đây vang vọng trong tai lời ca của ca
sĩ Chế Linh với bản nhạc “Hận Đồ bàn”
Rừng hoang vu..... Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận
thù.
Ngàn gió ru... muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương... buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đàn đóm vương.... như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo.ngàn muôn tiếng ngâm, tháng năm còn vang, âm thầm hòa bài, hận vong quốc ca.
người xưa đâu? mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu. lầu các đâu? nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu.
Ngàn gió ru... muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương... buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đàn đóm vương.... như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo.ngàn muôn tiếng ngâm, tháng năm còn vang, âm thầm hòa bài, hận vong quốc ca.
người xưa đâu? mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu. lầu các đâu? nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu.
Tại cung điện hoàng gia, các nhà khảo
cổ đã tìm thấy một phiến đá tạc bằng chữ Sanskrit kể về sự nghiệp của vua
Jayavarman VII như sau:
Lúc thiếu thời, khi Jayavarman VII mang quân
đi đánh Chiêm Thành (Champa), thì cha mất. Vua Yasovarman II lên ngôi, nhưng bị
Tribhuvanaditya chiếm ngôi. Ông trở về đợi lúc có thời cơ để phục hồi ngôi vua.
Khi Champa mang binh đánh phá Angkor và tiêu diệt Tribhuvanaditya, ông tự xưng
là vua và khởi nghĩa chống lại Champa.
Cuộc chiến với Champa rất là gay go qua
nhiều trận đánh và cuối cùng toàn thắng giải phóng đất nước. Sau đó, Jayavarman
VII trả thù mang quân đánh Champa, Champa bại trận và trở thành một tỉnh của
Khmer. Đây là khúc quanh lớn trong lịch sử của cả Champa và Cambodia. Ở Bayon
và Banteay Chmar có các điêu khắc về cảnh thủy chiến với Champa rất sống động.
Banteay Chmar khoảng 150 km về phía tây bắc Angkor gần biên giới Thái Lan hiện
nay, được Jayavarman VII xây dựng tưởng niệm con ông và bốn tướng lảnh hy sinh khi
đánh Champa. Banteay Chmar có kiến trúc tương tự như Bayon với tháp bốn mặt,
nằm trên con đường lộ xưa nối liến Angkor với Phimai và cao nguyên Khorat (nay
thuộc Thái Lan).
Đi bộ ra khỏi khu cung điện hoàng gia,
qua ngôi đền nhỏ thuộc niên đại gần đây với bức tượng Phật mạ vàng cao lớn. Chúng
tôi đến khu “sân voi” (Elephant terrace) nơi xưa kia vua cùng quân thần xem
cưỡi và đấu voi. Xưa kia ở đây là dinh thự của vua làm bằng gỗ, tuy nhiên qua
nhiều thế kỷ và thăng trầm của lịch sử đã không còn. Trên khu này còn sót lại
một tượng “vua cùi” và bệ lớn của khán đài bằng đá tương truyền là tượng nầy là vua Jayavarman VII.
Trên các tường, bệ chung quanh sân là những điêu khắc đạt đến đỉnh cao của nghệ
thuật Khmer Angkor: voi diễn hành, cưỡi voi chơi polo... Ở các góc tường bệ là
các tượng điêu khắc hình chim thần garuda dùng tay nâng đở sân. Ngồi trên bệ đá
tôi hình dung trước mắt mình những đàn voi hùng dũng tiến ra đấu trường.
Phnom Bakheng là một ngọn đồi nằm giửa
Angkor Wat và Angkor Thom. Đây là trung tâm của vương quốc Khmer đầu tiên ở
Angkor, gọi là Yasodharapura. Phnom Bakheng là ngọn núi thiêng của Angkor, như
núi Meru thiêng liêng trong thần thoại Ấn độ giáo. Trên đỉnh Phnom Bakheng là
một đền thờ đã đổ nát. Nơi đây trên mặt đất đá, các nghệ nhân Khmer xưa đã khắc
xuống nền đá một bàn chân khổng lồ. Tương truyền rằng bàn chân này là của đức Phật. Đặc biệt ở đây, mỗi ngày khoảng gần 6 giờ chiều, các du khách đến tụ tập
rất đông ở chân đồi Phnom Bakheng để lên đỉnh xem mặt trời lặn trên quần thể
Angkor. Đa số đều muốn đi bộ, theo các lối đi gập ghềnh đầy đá và rễ cây.
Trên đỉnh đồi lúc này du khách rất
đông, tất cả đều nhìn về hướng tây nơi mặt trời sắp sửa lặn trên mặt nước biển
hồ Tonlé Sap ở chân trời. Về phía tây nam là đền Angkor Wat đang tắm dưới ánh
hoàng hôn vàng đỏ của mặt trời sắp lặn. Khi Mouhot khám phá ra Angkor, ông có
lên đỉnh Phnom Bakheng nhìn xuống quần thể Angkor và đã mô tả như sau:
“Tất cả vùng này giờ đây vắng lặng và cô quạnh, mà trước kia chắc
chắn phải là sống động nhộn nhịp và vui vẽ; nay chỉ còn lại tiếng hú của
các loài dã thú và các tiếng chim kêu giửa sự im lặng cô đơn mà thôi”.
Mouhot chắc chắn sẽ không tưởng tượng
nổi lúc nầy tôi đang đứng ở chổ mà trước đây ông đã đến, và nơi đây bây giờ có hàng
trăm du khách từ khắp năm châu đang quay phim, chụp hình và nói chuyện náo
nhiệt.
Một sự kiện lý thú về Phnom Bakheng là
nó có tác dụng như một cái trống, phản hồi và cộng hưởng âm thanh. Vì ở dưới
tháp cao chính của đền có một vùng trủng tạo nên âm thanh vang dội cộng hưởng.
Ngoài ra ở đấy cũng có một mộ vuông nằm sâu trong lòng đất, mộ
này có duyên cơ từ câu truyện thần thoại “Mười
hai cô gái Angkor”.
Câu chuyện kể về một người tiều phu nghèo có 12 người con gái, một
trường hợp được coi là kém may mắn. Vì ông không thể nuôi nổi gia đình, ông đã
mang con vô rừng bỏ, nhưng không thành công lúc đầu. Lần thứ hai thì ông
thành công, nhưng thay vì chết, 12 cô gái được bà hoàng hậu Santhomea của
thế giới chằng tinh cứu. Bà Santhomea mang các cô gái về nuôi chúng
như con mình. Sau này vì quá cô đơn, các cô đã bỏ trốn. Họ đến vương quốc
Angkor, tại đấy vị vua trị vì đã thương các cô và mang về làm vợ. Các cô đã
sống trong hạnh phúc cho đến một ngày khi bà hoàng Santhomea tìm được tông
tích của các cô. Để trả thù, bà đã mê hoặc vua và làm cho vua đuổi
nhốt các cô gái vào một hố sâu trong lòng đất, sau khi đã khoét mắt các cô. Đây
là lần thứ ba các cô đã bị bỏ rơi cho chết. Một trong các chị em đã dấu được
một con mắt và vẫn còn có thể thấy được. Người con gái một mắt giúp tìm thức ăn
cho các chị em sinh sống. Một trong các cô có mang một đứa con trai. Người con
trai này lớn lên trả thù cho mẹ và các dì của mình. Anh ta đã giết được bà
chằng tinh Santhomea và các chị em được trở về với nhà vua sống hạnh phúc.
Ta Phrom
Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục đi thăm
các đền Thommanon, Chao Say Tevoda, Ta Phrom, Neak Pean.. Đền Thommanon nằm gần
cửa “Chiến Thắng” của Angkor Thom. Trong thập niên 1960, đền đã được trường
Viễn đông Bác cổ trùng tu bằng phương pháp phục hồi dùng vật liệu giống như vật
liệu ban đầu (anastylosis). Trung tâm đền nằm giửa hai cổng tháp, một ở đông và
một ở tây. Kiến trúc đền Thommanon thuộc loại cổ điển Angkor Wat, tương tự như
kiến trúc đền Phimai ở Thái Lan.
Đối diện với đền Thommanon, bên kia
đường là đền Chao Say Tevoda có kiến trúc tương tự nhưng bị đổ nát vì chưa được
trùng tu bao giờ. Đền không lớn, nhỏ hơn đền Thommanon một chút.
Đền Thommanon và Chao Say Tevoda được
vua Suryavarman II xây dựng cùng thời với Angkor Wat. Thommanon thờ thần Vishnu
nhưng đền Chao Say Tevoda thờ thần Shiva.
Thường ở trung tâm các tháp có kiến trúc đá tượng trưng dương vật linga
biểu hiện của thần Shiva và âm vật Yoni, đặc điểm của văn hóa và tôn giáo Ấn độ.
Ta Phrom là đền lãng mạng nhất ở
Angkor, được vua Jayavarman VII xây năm 1186 để tưởng niệm mẹ của nhà vua,
Jayarajachudanami và dưới dạng tượng quan âm bồ tát Bát Nhã Ba la mật
(Prajnaparamita, tượng trưng cho sự sáng suốt uyên thâm) và còn có tượng thầy
của vua, Jayamangalartha. Cả hai tượng được dặt trong đền. Các cây cổ thụ mọc
ngay trên đền, với rễ cây to lớn bao phủ các tháp và kiến trúc đền. Đó là hai
loại cây, Ficus religiosa và cây bông gạo (kapok). Đền có không khí bị bỏ hoang
trong rừng. Các tảng đá lớn đỗ nằm lỗn ngỗn khắp mọi nơi từ các tháp, kiến trúc
bị sụp đổ do các cây rừng tàn phá từ bao thế kỷ.
Viếng đền Ta Phrom mới cảm nhận được
cảm tưởng của những người đầu tiên tìm lại được Angkor, khi họ chứng kiến được
Angkor trong trạng thái bỏ hoang trong rừng rú. Chính vì đặc điểm này mà rất
nhiều du khách đến thăm đền. Trong hầu hết lộ trình của các chuyến thăm quan du
lịch quần thể Angkor, cũng như Angkor Wat, Ta Phrom là một địa điểm phải được
ghé thăm.
Neak Pean là một đền nhỏ, trước kia là
nằm giửa một hồ nhân tạo lớn gọi là Jayatataka. Đây là hồ nước nhân tạo, xưa
lấy từ sông Siem Reap mà người xưa ở Angkor dùng để canh tác và nay đã hoàn
toàn khô không còn nữa.
Ở giửa hồ hình vuông là một đảo tròn
nhỏ, có một tháp chung quanh là tượng rắn thần naga. Châu Đạt Quan có viết rằng
hồ nước có nhiều hoa sen và tháp có nóc bằng vàng. Nay thì tháp được trang trí
bằng những điêu khắc hình ảnh đức Phật và bồ tát Bodhisattva Avalokiteshvara
(tượng trưng cho từ bi). Một tượng con ngựa tượng trưng cho bồ tát, đó là ngựa
Balala. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì đức bồ tát đã hóa thân thành con ngựa
Balala để cứu một nhóm thương nhân bị đắm tàu.
Một đặc điểm của Neak Pean là có bốn
buồng nhỏ chung quanh đảo. Mỗi buồng có một vòi phun nước, một buồng giống hình
con voi, một giống sư tử, một giống con ngựa và một giống hình người. Từ những
vòi này là nước trong veo chảy ra.
Preah Khan
Giống như Ta Phrom, đền Preah Khan vẫn
còn như trong trạng thái hoang dã với các cây cổ thụ mọc trên kiến trúc đền.
Chung quanh đền là rừng, nên đền có một không khí rất cổ kính tôn nghiêm và
hoang dã. Một nơi thơ mộng, rất lý tưởng để suy tư và trầm ngâm trong yên lặng.
Preah Khan, Ta Som và Neak Preah là một
nhóm đền gần Jayatataka. Cũng như Bayon ở Angkor Thom, cả ba đền là kiến trúc
Phật giáo được vua Jayavarman VII xây dựng. Preak Khan và Ta Som là đền được
xây để tưởng niệm cha của vua Jayavarman VII.
Preah Khan rất lớn khoảng 57 hectares,
được bao bọc bởi bốn lớp tường thành và một hào nước bên ngoài. Preah Khan
không phải chỉ là một đền thờ mà thật ra là một thành phố nhỏ. Những ký tự tìm
được ở Preah Khan có nói đến một cộng đồng hơn 90 ngàn dân sống trong vòng đai
đền. Chổ ở của các thầy tu, học trò và các người chăm sóc đền chắc là ở khoảng giửa
bức tường bên ngoài và bức tường thành thứ hai.
Từ chổ đậu xe ở cổng hướng đông, chúng
tôi đi bộ vào đền Preah Khan. Đường đi vào Preah Khan hai bên là hàng dài các
tượng đèn đá, sau đó là qua một cầu đá giống như ở Angkor Thom với hai bên là
các thần và quỷ ôm con rắn chín đầu. Điều này cho thấy Preah Khan trước đây là
chổ ở của hoàng gia, có thể nơi đây Jayavarman VII làm cung điện trong khi
Angkor Thom đang được xây dựng.
Qua cầu đá là đến cửa thành vòng ngoài,
cửa thành được bảo vệ bởi các tượng chim thần Garuda to lớn. Trên cửa là tháp
(gopura) rất hùng vĩ. Đi qua hai bức tường thành nữa là đến hệ thống kiến trúc
đền với các điện, hành lang, phòng và đền thờ. Trong điện được gọi là “Điện người múa” vì trên cửa vào có các điêu khắc vũ nữ apsara rất đẹp. Giửa
trung tâm Preah Khan có một tháp hình chuông (stupa) cho thấy đền Preah Khan
ban đầu được xây là đền phật giáo.
Ở Preah Khan có một bệ đá khắc chữ,
liệt kê các công trình kiến trúc được vua Jayavarman VII xây dựng trong đó có
23 tượng đá gọi là Jayabudha mahanatha. Tên tượng cho phép ta đoán là các tượng
này tượng trưng cho nhà vua. Bia đá khắc ở Preah Khan cũng có nói đến 121 nhà
nghĩ mà nhà vua xây dọc đường trên vương quốc.
Trên đường đi Banteay Srei, chúng tôi
ngang khu phố dọc bờ sông SiemReap nơi có nhiều dinh thự và nhà lớn là chổ cư
ngụ của tỉnh trưởng Siem Reap và các quan chức quan trọng. Đường đi đến Banteay
Srei rất tốt, được cải tiến rất nhiều.
Đền Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ
thuật tôn giáo Balamon Ấn độ. Đền gồm ba lớp, qua
cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước (nay
không còn) là cổng vào vòng giửa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và
hai toà kiến trúc gọi là “thư viện”. Trên mi cửa (lintel) ở cửa hành lang điện
sảnh là những điêu khắc rất tuyệt tác. Trên sân nhỏ giửa đền ở vòng trong có ba
đền thờ: kiến trúc đền thờ phía bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía
nam thờ thần Shiva.
Trên đường trở về Siem Reap, chúng tôi ghé
qua vài ngôi đền khác trong quần thể Angkor mà các ngày trước chúng tôi chưa có
dịp viếng thăm được. Cụ thể là các đền Mebon Đông, Ta Som và Ta Keo.
Mebon Đông (East Mebon)
Mebon Đông xưa kia nằm trên một hòn đảo
nhỏ giửa một hồ đập nước lớn hình chữ nhật, gọi là “Đông Baray”. Châu Đạt Quan
gọi hồ này là Đông Hồ. Đền Mebon Đông có tất cả các đặc tính của một đền núi,
tượng trưng cho núi thiêng Meru. Muốn đến được đền phải đi bằng thuyền, lên
nhiều bậc thang đá đến sân đền. Hồ đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Trên sân
đền là năm tháp gồm bốn tháp ở bốn góc chung quanh
một tháp lớn ở giửa. Đền được vua Rajendravarman (944-968) xây dựng. Các ký tự
tìm được gần đền và trên tượng đá tại đền (được xác định là năm 952) mô tả vị
trí các điện thờ linh phù (linga) Sri Rajendresvara, các thần, nhất là Shiva và
Parvati, giống như cha và mẹ của vua Rajendravarman. Đền Mebon Đông thuộc vào
nhóm đền thờ cha mẹ của vua.
Xuống xe gần đền, chúng tôi nhận thấy
đây là địa điểm khá xa trong quần thể Angkor nên hầu như không có du khách.
Chúng tôi đi lên đền qua nhiều bậc thang đá, qua tượng hai sư tử đá là đến sân
đền. Từ sân đền trên cao nhìn xuống ta có thể thấy một số đền khác ở phía xa và
khoảng đất bằng phẳng chung quanh đền của hồ cạn “Đông Baray”. Ở bốn góc sân
đền là bốn tượng voi đá lớn và rất đẹp. Nhưng cảnh hoang vắng trong một đền
rộng lớn và yên lặng! nhìn được bốn phía từ sân trên đỉnh đền, như có gì huyền bí trang nghiêm làm chúng tôi như
bị thôi miên và đi khắp nơi trong đền. Tôi liên tưởng đến cách đây năm sáu thế
kỷ trước, nơi đây là chổ người ở quanh vùng đến thờ cúng náo nhiệt nay hoang
tàng và chỉ để lại di tích của một nền văn minh rực rỡ đã mất.
Đền Mebon Đông không như các đền khác
trong quần thể Angkor như Angkor Wat, Banteay Srei hay Angkor Thom, nhưng là
một đền uy nghi vì tầm vóc cao lớn ở giửa đất bằng chung quanh và có nghệ thuật
trang trí qua các linh phù điêu khắc rất sống động. Xưa kia đền ở giửa hồ, từ
xa có thể thấy như ngọn núi thiêng trấn ngự bao trùm chung quanh vùng và với
vai trò quan trọng là trung tâm tôn giáo và tâm linh của người xưa.
Ta Som là một đền nhỏ gần Neak Pean và
Preah Khan, về phía đông của hồ Jayatataka và được bảo vệ bởi một hào nước nay
đã cạn. Vòng trong của đền chỉ có kích thước 30mx20m.
Giống như ở Bayon, trên tháp (gopura) ở
cửa đông và tây là các tượng lớn điêu khắc hình mặt người ở bốn hướng. Trong
các hành lang ở đền là các điêu khắc vũ nữ apsara và các thần. Ta Som là đền
Phật giáo được xây bởi vua Jayavarman VII vào thế kỷ 12 như ở Preah Khan, đền
xây để tưởng niệm vua cha.
Sau ba ngày viếng thăm quần thể Angkor,
tôi đã học hỏi được rất nhiều. Trên đường ra phi trường Siem Reap để trở lại Việt Nam vào ngày 30 tết lòng tôi
rất luyến tiếc, vì lúc nào hình ảnh của Angkor đều lẩn quẩn trong tôi với nét
huyền bí. Trong đầu tôi, bao câu nhiêu câu hỏi hiện ra “ làm sao và làm sao
người xưa có thể tạo nên một kỳ quan hùng vĩ đầy huyền bí đến như
thế?”. Chưa rời khỏi nhưng tôi đã tự nhủ với lòng hẹn ngày trở lại Angkor trong
tương lai, vì thế năm 2011 tôi đã cùng con gái trở lại Angkor, vẫn cảnh tượng
huyền bí hùng vĩ trước mắt tôi như ngày nào không thay đổi. Angkor vẫn sừng
sửng trơ gan cùng tuế nguyệt!
Trịnh Ngọc Thủy và các bạn nhóm du lịch