ĐỐI CHIẾU KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Xưa nay đã có
rất nhiều sách báo đối chiếu hay so sánh khoa học và Phật giáo. Người ta
so sánh hai môn học rất khác biệt này và thấy chúng có nhiều điểm tương
đồng quan trọng, tuy nhiên cũng có những
khác biệt rất lớn. Trong bài này, chúng tôi có mục đích muốn tìm ra
những điểm tương đồng và dị biệt đó. Vì đề tài này đã được bàn luận rất
nhiều rồi, nên ở đây chúng tôi không đi quá sâu vào chi tiết mà chỉ cố
gắng làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt
đó dưới cái nhìn tổng quan.
A. Những điểm tương đồng giữa Khoa học và Phật giáo
1. Cấu trúc của vật chất và Thuyết Thập nhị Nhân duyên của Phật giáo.
Khoa học ngày nay đã hiểu biết khá
nhiều về thế giới vật chất mà đa số tuyệt đối các nhà khoa học cho là
khách quan ở ngoài ý thức (quan điểm duy vật). Người ta biết rằng vật
chất không phải là một thể đồng nhất, mà nó được
cấu trúc từ những phần tử rất nhỏ gọi là nguyên tử. Khoa học thế kỷ 20
còn thâm nhập vào bên trong của nguyên tử để tìm hiểu những hạt cơ bản
tạo ra vật chất, vì những hạt này ở mức độ nhỏ hơn, thấp hơn nguyên tử
nên người ta gọi chúng là những hạt hạ nguyên
tử (subatomic particles) và thấy rằng trung tâm nguyên tử là một hạt
nhân được cấu tạo bằng hai loại hạt : proton và neutron.
Bên ngoài hạt nhân có những hạt
electron chuyển động rất nhanh chung quanh tạo thành một khối hình cầu
mà vỏ là electron và nhân là proton và neutron. Có những nguyên tử đơn
giản nhất chỉ có một hạt proton và một hạt neutron,
đó là hydrogen, nguyên tố chính tạo thành nước. Nguyên tử Helium thì có
hai proton, hai neutron và hai eletron.
Nguyên tử Helium |
Nguyên tử Hydrogen |
Trong hậu bán thế kỷ 20, người ta
còn thâm nhập sâu hơn nữa vào cấu trúc của hạt proton và hạt neutron và
thấy rằng chúng được cấu tạo bằng hai loại hạt quark : quark up và quark
down
Như
vậy chỉ với 3 loại hạt : quark up, quark down và electron, đã tạo ra
tuyệt đại đa số vật chất trên quả địa cầu của chúng ta. Các sinh vật
cũng hình thành từ những
hạt này mà thôi, tiến hóa từ chất vô cơ đến chất hữu cơ, rồi chất sống
và cuối cùng là con người vô cùng phức tạp và kỳ diệu.
Thuyết Thập
nhị Nhân duyên của Phật giáo cũng mô tả thế giới vật chất và thế giới
sinh vật bằng cấu trúc trùng trùng duyên khởi của nhân duyên mà yếu tố
căn bản là vô minh và yếu tố cuối cùng trong
chuổi 12 nhân duyên là Lão tử (già chết- Xem bài Thập nhị nhân duyên).
Khoa học (KH) và Phật giáo (PG) giống nhau ở chỗ mô tả thế giới là cấu
trúc, cấu trúc chính là bản chất của thế giới, đó là sự tương tác lẫn
nhau của đủ loại cấu trúc, khác nhau về hình
tướng nhưng đồng nhau về bản chất. Nhưng cấu trúc bằng vật liệu gì thì
chúng ta sẽ trở lại ở phần dị biệt.
2. Sự biến đổi, tuổi thọ hữu hạn của vạn hữu và Tính chất vô thường của vạn vật.
Khoa học đã chứng minh là tất cả mọi
vật từ một hạt cơ bản hạ nguyên tử cho đến vũ trụ bao la đều có tuổi
thọ hữu hạn, mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi, luôn luôn chuyển hóa từ
trạng thái này sang trạng thái khác, lâu hay
mau tùy vật nhưng biến đổi là bản chất của mọi vật. PG cũng nêu tính
chất vô thường của vạn vật, mọi vật đều luôn biến đổi qua 4 trạng thái
là : thành (hình thành), trụ (tồn tại và lớn lên), hoại (hao mòn và huỷ
hoại), và diệt (mất đi) và không gì có thể thoát
khỏi qui luật này. Tính chất vô thường hay bản chất sinh diệt là điểm
đặc trưng của thế giới chúng ta đang sống.
3. Đa vũ trụ theo KH và Tam thiên đại thiên thế giới theo diễn tả của PG
Khoa học với các phương tiện quan
sát và thám hiểm không gian hiện đại, biết rằng vũ trụ rất rộng lớn, bán
kính có thể đến 14 tỷ quang niên. Trong vũ trụ có vô số thiên hà, mỗi
thiên hà có hàng tỉ mặt trời với hệ hành tinh
của nó tương tự như dải ngân hà và thái dương hệ của chúng ta. Những
năm gần đây Khoa học cũng khám phá ra nhiều hành tinh hơi giống giống
trái đất của chúng ta, tuy nhiên Khoa học chưa tìm thấy tín hiệu của một
nền văn minh khác ngoài trái đất. Có rất nhiều
tin tức chưa được kiểm chứng về những vật thể bay không xác định (UFO
Unidentified Flying Objects) mà người ta ngờ là của những nền văn minh
khác ngoài địa cầu. Tuy nhiên chưa có một trường hợp nào được xác định
rõ ràng. Kinh điển PG thì đề cập đến Tam giới
là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Chỉ riêng Dục giới thôi đã rộng
lớn hơn vũ trụ mà chúng ta quan niệm vì ngoài cõi vật chất, Dục giới còn
bao gồm cõi trời Lục Dục thiên mà các giác quan của chúng ta không thể
tiếp xúc được. Như vậy Tam giới của PG vô
cùng rộng lớn được diễn tả bằng thuật ngữ “Tam thiên Đại thiên thế
giới”, tức là 1000 lũy thừa 3 (10003) Đại thiên thế giới, mỗi Đại thiên
thế giới có 1000 Trung thiên thế giới, mỗi Trung thiên thế giới có 1000
Tiểu thiên thế giới, mỗi Tiểu thiên thế giới
là 1000 thế giới nhỏ, một thế giới nhỏ là tương đương cõi thế gian của
chúng ta. Nếu dùng toán học để tính ra số lượng thế giới nhỏ thì như sau
: 10003 x 1000 (Đại thiên) x 1000 (Trung thiên) x 1000 (Tiểu thiên) =
một tỉ tỉ (1018) thế giới nhỏ (tương tự thế
gian). Thật ra đây chỉ là con số tượng trưng có ý nghĩa là rất lớn, đến
mức vô lượng vô biên.
Như vậy ta thấy PG đã đưa ra quan
niệm đa vũ trụ, các vũ trụ chồng chất lên nhau mà phần lớn là vô hình
đối với các giác quan của chúng ta, các cõi trời Lục Dục thiên thuộc Dục
giới, các cõi trời thuộc Sắc giới, các cõi trời
thuộc Vô Sắc giới đều hoàn toàn vô hình đối với chúng ta nên tuyệt đại
đa số con người không thể thấy được các cõi giới đó. Không thấy không
cảm nhận được, con người bèn cho rằng không có. Cũng giống như chung
quanh ta có rất nhiều sóng vô tuyến, sóng điện
từ, sóng cực vi mà ta không thể cảm nhận trực tiếp được.
Chỉ khi có các thiết bị như radio,
tivi, smartphone, hoặc những người có đặc dị công năng, mới thấy có âm
thanh, hình ảnh, tín hiệu, thế giới vong linh cõi âm…Đa vũ trụ cũng được
các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay
mô tả. Stephen Hawking (nhà vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo
sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà
khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này)
và Neil Turok (sinh năm 1958 tại Johanesburg
South Africa, Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện
Perimeter về Vật Lý lý thuyết), hai người nói trong một định đề
(postulate) : “The quantum world is one of virtual particles continually
fluctuating in and out of existence, even in a vacuum,
of superstrings vibrating and twisting in ten or eleven dimensions,
most of which are ‘rolled up’ and invisible, of a reality in which
gravitation, spacetime and matter are or were merged in one ‘instanton”
(Thế giới lượng tử là thế giới của các hạt ảo không
ngừng dao động qua lại giữa hiện hữu và cả hư không, của siêu dây rung
động và biến dạng trong 10 hoặc 11 chiều kích_ mà phần lớn những chiều
kích ấy bị cuốn lên và vô hình_của một thực tại trong đó lực hấp dẫn,
thời không, và vật chất, được hoặc đã được kết
hợp lại trong ‘hiện tiền’).
Cái mà chúng ta thấy và cảm nhận
được trong “hiện tiền” chỉ là một phần rất nhỏ của đa vũ trụ vô lượng vô
biên mà PG từ lâu đã diễn tả trong thuật ngữ “Tam thiên Đại thiên thế
giới”
4. Thuyết tương đối của Einstein và Tam giới duy tâm của PG
Thuyết tương đối của Einstein tập
trung ở 3 điểm quan trọng : không gian, thời gian và khối lượng vật chất
là tương đối. Tương đối có nghĩa là không tồn tại độc lập, là phụ thuộc
vào một cái khác, hay phụ thuộc lẫn nhau.
Tương đối cũng có nghĩa là có thể co dãn, có thể thay đổi. Thuyết tương
đối ngày nay đã được kiểm chứng.
-Khoảng cách không gian tương đối.
Một mặt trời có đường kính một triệu km, khi cháy hết nhiên liệu, có thể
co rút lại chỉ còn vài km, trở thành lỗ đen. Như vậy khoảng cách không
gian cấu tạo bằng vật chất có thể thay đổi.
Điều đó có nghĩa là khoảng cách bằng đường bộ tính theo đường thẳng từ
Sài Gòn đến Hà Nội là 712 dặm (miles) hay 1146 km có thể thay đổi.
Khoảng cách không gian chân không (không có vật chất đất đá, không khí)
từ Sài Gòn đến Hà Nội cũng không có thật. Hiện
tượng rối lượng tử (quantum entanglement) đã chứng minh rằng một photon
không mất chút thời gian nào để truyền tín hiệu qua lại giữa hai nơi
cách nhau 18km (tại Thụy Sĩ). Hiện tượng rối lượng tử thật sự đã làm cho
Einstein bối rối vì nó trái với định đề của
ông đưa ra, rằng ánh sáng là tốc độ cao nhất của vật chất. Vậy tại sao
photon có thể truyền tín hiệu đi nhanh hơn ánh sáng. Ông không thể lý
giải được và gọi đó là tác động ma quái từ xa (spooky action at a
distance). Eintein qua đời năm 1955, không kịp nhìn
thấy thí nghiệm tại Thụy Sĩ, nếu nói tín hiệu truyền đi từ hạt photon
này sang hạt photon kia thì nó phải đi nhanh hơn gấp hàng triệu lần tốc
độ ánh sáng. Điều đó không đúng mà phải hiểu khác đi là khoảng cách
không gian không có thật.
– Thời gian tương đối. Thí nghiệm
đầu tiên chứng minh thời gian co giãn thực hiện năm 1938. Các nhà khoa
học Mỹ sử dụng hiệu ứng Doppler (hiện tượng sắc thái âm thanh của một
vật – chẳng hạn tiếng còi tàu – thay đổi khi đến
gần hoặc đi xa tai người nghe) để làm dụng cụ đo. Nhưng lúc ấy mức độ
chính xác của công cụ đo lường còn hạn chế nên thí nghiệm chưa có sức
thuyết phục cao. Năm 2005 người ta làm thí nghiệm với máy gia tốc, họ
phát đi 2 chùm nguyên tử chạy theo hình một cái
bánh rán – thể hiện cho chiếc đồng hồ đang chuyển động của Einstein.
Sau đó, họ đo thời gian của các chùm nguyên tử này bằng máy đo phổ laser
có độ chính xác cao. Khi so sánh với thế giới thực bên ngoài, họ nhận
thấy thời gian di chuyển của các nguyên tử quả
thực chậm hơn bình thường. “Chúng tôi đã có thể xác nhận hiệu ứng này
chính xác chưa từng có”, trưởng nhóm nghiên cứu Gerald Gwinner từ Đại
học Manitoba ở Winnipeg, Canada, nói. “Và trong sự nhất trí tuyệt đối”,
ông bổ sung. Thí nghiệm này đã chứng minh thời
gian chạy nhanh lên hoặc chậm đi phụ thuộc vào tốc độ di chuyển của một
vật so với vật khác.
– Khối lượng tương đối. Theo Walter
Kaufmann, vào năm 1901 ông là người đầu tiên xác nhận khối lượng điện
từ phụ thuộc vào vận tốc. Khối lượng điện từ là khối lượng gắn liền với
sự chuyển động của electron trong nguyên tử.
Khi một vật di chuyển nhanh đáng kể (tức gần với vận tốc ánh sáng) thì
khối lượng của các electron cũng tăng lên rõ rệt. Điều đó chứng tỏ khối
lượng cơ học của vật thể là không cố định, không có thực thể, chỉ có
khối lượng điện từ biểu kiến (apparent) mà thôi,
hay nói cách khác, khối lượng của mọi vật thể đều có nguồn gốc điện từ.
Trên địa cầu, khi một vật đứng yên, nó vẫn có khối lượng bởi vì thực ra
địa cầu chuyển động, thái dương hệ chuyển động, dải ngân hà chuyển
động, do đó không có vật gì thật sự đứng yên.
Vì vậy mọi vật đều có khối lượng. Nguồn gốc của khối lượng là năng
lượng đã làm cho electron chuyển động. Năng lượng đó được tích lũy trong
hạt nhân nguyên tử. Vì vậy giữa khối lượng và năng lượng có sự tương
đương, được thể hiện trong công thức nổi tiếng
của Einstein :
E (năng lượng) = M (khối lượng) x C2 (vận tốc ánh sáng)
Khối lượng tương đối được chứng minh
rõ ràng trong các máy gia tốc hạt, khi các electron tự do di chuyển với
tốc độ bằng 99,9999875 phần trăm tốc đô ánh sáng. Lúc đó khối lượng
electron tăng gấp 2000 lần so với khối lượng
bình thường của electron.
Giữa khối lượng và năng lượng có sự
liên hệ chặt chẽ qua công thức trên, nên nếu khối lượng là tương đối,
nghĩa là có thể thay đổi, thì năng lượng cũng thế, có thể thay đổi, năng
lượng có thể biến thành khối lượng vật chất.
PG nói rằng Tâm cũng là một dạng năng lượng, chẳng những vậy, Tâm còn
là một năng lượng vô hạn. Nếu làm chủ được Tâm thì cả vũ trụ này chỉ là
món đồ chơi của Tâm làm ra. Đó chính là ý nghĩa của câu Tam giới duy
Tâm. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
dẫn đến một hệ quả hết sức ngạc nhiên, đó là số lượng cũng tương đối,
nghĩa là có thể thay đổi. Số lượng là số đếm dựa trên vật thể tức là các
hình tướng khác nhau của vật chất. Mà vật chất là tương đối dù xét theo
khối lượng hay năng lượng, nên số lượng cũng
là tương đối, nó không có thực chất, chỉ là quan niệm, là tâm thức mà
thôi. Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) là một thực nghiệm
chứng minh rõ ràng và chắc chắn số lượng là không có thực. Một photon có
thể xuất hiện đồng thời ở hai hoặc nhiều
vị trí khác nhau, khi photon tại một vị trí bị tác động, thì photon tại
các vị trí kia bị tác động y hệt, tức thời, bất kể khoảng cách là bao
xa. Vậy ta không thể nói là chỉ có một photon, cũng không thể nói là có
nhiều photon khác nhau. Không thể xác định
được, xác định nào cũng không đúng.
Chính ở đây Khoa học đã gặp Phật
giáo vì trong Kinh Kim Cang có câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm-應無所住而生其心” (Không có chỗ trụ thì xuất hiện cái tâm ấy). Tất cả đều
chỉ là cái Tâm ấy thôi, khắp không gian, khắp thời gian,
không thể xác định được là ở đâu, lúc nào. Nó bất nhị, không thể nói là
thật hay giả, có hay không. Thuyết tương đối đã đến gần với nhận thức
PG, những cái mà con người cho là có thật, khách quan, ở ngoài ý thức,
PG đều nói là không có thật. Khi con người
bước vào thế giới lượng tử, họ mới thấy, mới hiểu tất cả đều là tương
đối, không có cái gì là thực thể độc lập tồn tại, kể cả những cái từ bao
đời nay họ vẫn tin tưởng là có thật như không gian, thời gian, vật
chất, số lượng.
Nói về số lượng, tưởng cũng nên nhắc
tới nhà toán học David Hilbert và chương trình của ông : Xây dựng một
hệ thống siêu-toán-học (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt
đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế
giới hiện thực, cho phép XÁC ĐỊNH tính trắng/đen, đúng/sai của bất kỳ
một mệnh đề toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ
toán học.
Để cho dễ hiểu, xin nói một cách đơn sơ, Hilbert muốn thoát ly khỏi thế giới hiện thực bằng cách thay thế đẳng thức :
1 con cừu + 2 con cừu = 3 con cừu
Thành đẳng thức thuần túy toán học 1+2= 3
không còn dính dáng gì tới vật chất nữa.
Nhưng ông không ngờ rằng đẳng thức
1+2=3 là bất toàn, nghĩa là không phải lúc nào cũng đúng, bởi vì về bản
chất số lượng là không có thật, đó chỉ là ý niệm mà thôi, ý niệm đó
phải gắn với hiện thực mới có ý nghĩa. Trong
hiện tượng rối lượng tử, ta có thể thành lập đẳng thức :
1 photon + 2 photon = 1 photon
[trong đẳng thức, vế đầu mang ý nghĩa thực chứng (positivism), vế sau
mang ý nghĩa bản thể học (ontology) nhiều photon xuất hiện tại nhiều vị
trí khác nhau, thực tế chỉ là 1 photon]
Phật giáo nói hàng tỷ tỷ chúng sinh trong tam giới chỉ là ảo ảnh của một Phật tính bất nhị mà thôi.
Chính nhà toán học Kurt Gödel đã
công bố Định lý bất toàn (Theorem of Incompleteness) vào năm 1931, chỉ
ra rằng giấc mộng của Hilbert chỉ là ảo tưởng vì dù cho lô gích của toán
học chặt chẽ thế nào, vẫn có mâu thuẫn, chính
vì có mâu thuẫn nên giá trị của toán học cũng chỉ là hữu hạn, có tính
cách tùy tiện trong một phạm vi nào đó thôi. Kinh điển Thiên Chúa giáo
cũng có kể chuyện, trong một buổi giảng đạo bên hồ Galilea, có năm ngàn
đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà và trẻ con,
họ đói, nhưng người thân cận của Chúa Jesus chỉ có 5 cái bánh và 2 con
cá, Jesus đã bẻ bánh chia cho tất cả những người tham dự buổi giảng đều
được ăn no bụng. Nhiều người cho rằng những câu chuyện như trên chỉ là
truyền thuyết hoang đường, ít ai biết rằng
chúng cũng có cơ sở khoa học. Đó là số lượng hay khối lượng tương đối,
nhiều hay ít chỉ là tâm thức chứ không phải thực thể, nên 5 cái bánh
chia cho 10 ngàn người, mỗi người một cái, ăn đủ no, đẳng thức toán học
của Hilbert đã thành vô dụng. Nếu chúng ta cho
rằng câu chuyện trên chỉ là hoang đường, không có thật, vậy thì nói sao
về hiện tượng rối lượng tử, một photon có thể xuất hiện đồng thời tại
nhiều vị trí khác nhau, chẳng phải một tức là nhiều đó sao ? Đây không
phải là giả tưởng, đây là hiện thực, chúng
ta cũng có thể thực nghiệm việc tương tự trên internet, ta chỉ có một
tấm hình nhưng ta có thể gởi cho vô số người, ai cũng biết điều này có
thể làm được trên máy vi tính nối mạng.
B. Những điểm dị biệt giữa Khoa học và Phật giáo
Tuy có một số điểm tương đồng, nhưng
giữa KH và PG cũng có nhiều dị biệt. Dị biệt là do KH đang trong quá
trình mò mẫm để hiểu thế giới, còn kinh điển PG liễu nghĩa được thuyết
giảng bởi những người đã tự mình chứng được
cái chân lý tột cùng mà kinh gọi là trí tuệ Bát nhã, Chánh biến tri,
hay phiên âm từ Phạn ngữ là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề 阿耨多羅三藐三菩提
dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (sanskrit :
Anuttara-samyak-sambodhi, tánh biết chân thật, bình đẳng không
có gì cao hơn). Dưới đây xin liệt kê một số điểm dị biệt quan trọng.
1. Đối tượng:
Đối
tượng của khoa học tự nhiên là thế giới vật chất, khách quan, ở ngoài ý
thức ; từ vũ trụ mênh mông sau Big Bang đến thế giới vi mô hạ nguyên tử
; từ thế giới
không có sự sống đến thế giới sinh vật. Đối tượng của khoa học xã hội
là là những gì quan hệ tới con người như Xã hội học, Chính trị, Luật
học, Văn học, Triết học, Nghệ thuật, Âm nhạc… KH muốn tìm ra các chân lý
tương đối như định luật (tự nhiên), qui luật
(xã hội), các hằng số tự nhiên như số pi, vận tốc ánh sáng, hằng số
Planck…để phục vụ cho sự tiện ích của con người và để xã hội phát triển.
Đối tượng của Phật giáo là chúng
sinh đang chịu khổ trong sinh tử luân hồi, đang sống mê muội, vô minh.
PG muốn cứu độ tất cả chúng sinh muôn loài thoát khỏi đau khổ, mặc dù
biết rằng đau khổ đó chỉ là ảo tưởng chứ không
phải thật, nhưng vì chúng sinh chấp là thật nên phải chịu đau khổ.
Chẳng hạn con người chấp cái ta là có thật (chấp ngã) do đó cũng chấp
cái của ta (ngã sở ) là có thật, ví dụ thân bệnh cũng khổ, cái gì của ta
như tài sản, tài nguyên bị đe dọa mất mát thì
sinh lòng lo âu, quyết tâm đem cả thân mạng ra bảo vệ, dẫn đến chiến
tranh đau khổ. Tóm lại PG chỉ quan tâm đến cái tâm lý chủ quan của chúng
sinh, mà thuật ngữ PG gọi là chấp trước tưởng. PG muốn chúng sinh, chủ
yếu là con người, buông bỏ chấp trước tưởng
mà kiến tánh, tức ngộ được bản chất chân thật của mình. Bản chất đó là
bản lai diện mục của chúng sinh, còn gọi Phật tánh, hay Trời (Nho giáo)
hoặc Thượng đế (Thiên Chúa giáo).
Phật giáo biết là thế giới khách
quan không có thực, chỉ có thế giới chủ quan do tâm tạo, do đó Phật giáo
không có kiến lập chân lý. Đức Phật trước khi nhập diệt đã nói rõ : «
Trong 49 năm qua, ta chưa có nói một chữ » 84.000
pháp môn chỉ là phương tiện giả lập để đối trị với các loại căn tánh
khác nhau của chúng sinh, đó chỉ là thuốc giả để trị bệnh giả. Kinh Hoa
Nghiêm nói : « Chúng sinh là Phật đã thành » Nghĩa là tất cả chúng sinh
đều là Phật, hiện tại cũng là Phật, chỉ vì
ham vui, mê chấp những cảnh giới ảo tưởng, lâu ngày tạo thành thói
quen, quên mất mình là Phật, tưởng mình là chúng sinh khác với Phật. Đó
là bệnh giả, Phật phải dùng thuốc giả để trị. Hết bệnh rồi, thuốc giả
phải bỏ.
Tóm lại Khoa học tìm kiếm chân lý
tương đối trong thế giới mà khoa học gia cho là khách quan. Phật giáo
phủ nhận thế giới khách quan, không kiến lập chân lý (thực chất là không
có chân lý) chỉ muốn chúng sinh thoát khỏi mê
lầm và khổ vì sinh tử luân hồi.
2. Phương pháp:
Khoa
học sử dụng tư duy của bộ não, suy luận lô gích, dùng phương pháp so
sánh để nhận biết. Càng ngày Khoa học càng phát triển các thiết bị đo
lường, các phương
pháp tính toán chính xác, các phương trình toán học để từ những cái đã
biết, suy luận ra cái chưa biết. Khoa học rất chú trọng về định lượng,
do đó phương trình toán học không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học.
Cho đến ngày nay, Khoa học đã có những bước
tiến khổng lồ, chế tạo được vô số công cụ, thiết bị để phục vụ tiện
nghi cho mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Phật giáo chỉ chú trọng phương pháp
quán tưởng để phá bỏ tri kiến vô minh, đạt tới sự thấu hiểu cực kỳ sâu
xa mà suy luận của bộ não không thể đạt tới. Phương pháp đó gọi là thiền
định, hành giả có thể đạt tới những cảnh
giới như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, hoặc cao hơn nữa như
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hay cao nhất là Không vô biên xứ. Đến cảnh
giới này thì mọi chấp trước về không gian, thời gian, số lượng đều bị
phá bỏ, tâm thức vô trụ, tư duy ngừng nghỉ.
Ngoài quán tưởng, Phật giáo Thiền
tông còn dùng phương pháp khác là tham công án và về sau là tham thoại
đầu. Đây là phương pháp tối thượng thừa của Thiền. Công án là một tình
huống bất chợt mà người đã ngộ, tạo ra cho người
chưa ngộ để có thể phát khởi nghi tình. Nghi tình là tâm thức hoài
nghi, ở đây không dùng tới tri kiến và suy luận, mà chỉ duy trì sự hoài
nghi kéo dài, miên mật cho đến một lúc nào đó thì bùng nổ, tức là kiến
tánh. Thoại đầu không phải là câu thoại mà là
cảnh giới trước khi có câu thoại, gọi là vô thủy vô minh. Để tới cảnh
giới đó, dùng một câu thoại đề khởi liên tục để phát sinh nghi tình và
duy trì nghi tình cho miên mật càng lâu càng tốt. Câu thoại là một câu
nào đó rất khó hiểu làm cho hành giả sinh nghi,
nhưng không tìm cách giải đáp mà chỉ kéo dài nghi tình mà thôi. Chẳng
hạn câu thoại “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sinh là gì
?-父母未生前如何是本來面目?”.
Tóm lại, Khoa học phát triển tư duy,
hướng ra thế giới vật chất bên ngoài, chú trọng định lượng. Còn Phật
giáo tìm cách chấm dứt tư duy, chấm dứt tận ngọn nguồn sâu thẳm của nó
là 18 giới (lục căn, lục trần, lục thức) bởi
vì tư duy là sở tri chướng che khuất Phật tánh, khi đã dừng được tư duy
thì Phật tánh tự hiện.
3. Cứu cánh.
Cứu
cánh của Khoa học là tri thức, càng nhiều tri thức càng tốt, tri thức
càng rộng lớn, chuẩn xác thì càng tốt. Tri thức đó được ứng dụng để sản
xuất lương thực
thực phẩm, chế tạo quần áo, vật dụng sinh hoạt như nhà cửa, đường sá,
xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…khiến cho đời
sống con người ngày càng tiện nghi, đầy đủ.
Cứu cánh của Phật giáo là Giác ngộ,
thoát khỏi mọi lo âu sợ hãi, thoát khỏi sinh tử luân hồi, đạt tới sinh
tử tự do, làm chủ tâm lực, điều này cũng có nghĩa là làm chủ cả tam giới
vì tam giới là do tâm tạo. Hành giả đạo Phật
không còn thiết tha mê lầm với cái ta giả nữa, mà trở về với cái bản
tâm chân thật, đó là Tâm như hư không vô sở hữu. Tất cả mọi chúng sinh
đều cùng chung một Tâm ấy cả, nó chẳng phải một mà cũng chẳng phải nhiều
nên PG gọi bằng thuật ngữ Tâm bất nhị.
4. Sự Hạn chế.
Khoa học mặc dù làm được sự nghiệp vĩ đại nhưng vẫn còn nhiều hạn chế :
– Khoa học không thể làm chủ được
thiên tai, Khoa học không đủ khả năng chế ngự động đất, sóng thần, bão
lụt, núi lửa. Lý giải của Khoa học về thiên tai như động đất, núi lửa,
dông bão…là không tới nơi tới chốn, nên không
bao giờ chế ngự được chúng. Lúc Huệ Năng tới chùa Pháp Tánh vào năm 676
(nay là chùa Quang Hiếu 光孝寺 ở Quảng Châu) gặp hai ông tăng tranh luận
không dứt về việc gió động hay phướn động, ngài nói rằng “chẳng phải gió
động, chẳng phải phướn động, tâm của các
ông tự động” Khoa học thì giải thích là gió làm phướn động, quá hợp lý
phải không, nhưng từ đâu có gió ? không khí nhiệt độ ư, nếu cứ tiếp tục
hỏi tới mãi, vật chất từ đâu mà có ? Khoa học sẽ bế tắc không giải
thích được nữa, lúc bấy giờ chúng ta mới có thể
hiểu ý nghĩa câu nói của Huệ Năng. Tâm lực mới đích thực là nguồn gốc
chuyển động của electron. Vậy nếu làm chủ được tâm thì làm chủ được
thiên tai, làm chủ được vũ trụ.
– Khoa học không thể mang lại hòa
bình cho thế giới. Khoa học không thể giúp con người sống hòa bình thân
thiện hơn trên thế giới. Tại sao ? Bởi vì khoa học dựa trên một cơ sở
sai lầm về nhận thức cơ bản, khoa học vẫn cho
rằng thế giới ngoại cảnh là có thật, con người là có thật, mỗi người có
cái ta (bản ngã) và nhiều thứ khác thuộc về ta (sở hữu của ta, gọi tắt
là ngã sở). Có những cái thuộc lãnh vực vật chất như giang sơn lãnh thổ,
lãnh hải, tài nguyên. Có những cái thuộc
lãnh vực tinh thần như lịch sử, văn hóa, tôn giáo. Những cái ngã sở đó
là đầu mối tranh chấp, xung đột như : tranh chấp về lãnh thổ, lãnh hải,
xung khắc về văn hóa, tôn giáo, xung đột về quyền lợi, từ đó dẫn tới
chiến tranh. Những tranh chấp về lãnh thổ không
thể giải quyết một cách hòa bình được, vì ai cũng cho lãnh thổ là
thiêng liêng, quyết không thể nhượng bộ, nên cuối cùng chỉ có thể giải
quyết bằng vũ lực. Những xung khắc về niềm tin tôn giáo cũng rất dễ dẫn
tới chiến tranh, ví dụ trong lịch sử đã có ít nhất
7 lần người Công giáo La Mã tổ chức Thập tự chinh (Crusade) chống lại
người Hồi giáo. Ngay trong nội bộ Ki Tô giáo, người Thiên Chúa giáo cũng
có chiến tranh với người theo Tân giáo hay còn gọi là Tin Lành
(Protestantism – Evangelicalism). Xung đột giữa người
theo Ấn Độ giáo và Hồi giáo cũng rất trầm trọng. Người Hồi giáo đã tấn
công tiêu diệt Phật giáo trong thế kỷ 12, 13 khiến Phật giáo bị diệt
vong ngay tại quê hương của nó là Ấn Độ. Trong những cuộc chiến tranh,
xung đột như thế, khoa học bất lực không thể
giúp được gì, nếu không muốn nói khoa học lại càng làm cho chiến tranh
tàn khốc hơn với vũ khí ngày càng tối tân, vũ khí hủy diệt hàng loạt…
– Khoa học dù cho có tiến bộ, vẫn
không thể giải quyết được những nỗi khổ cơ bản trong đời sống con người,
đó là sinh, lão, bệnh, tử. Khoa học chỉ có thể tạm thời xoa dịu được
phần nào thôi. Con người hay nói tổng quát hơn
là chúng sinh khi chết đi lại tái sinh trong một kiếp sống khác, sinh
ra, già đi, bệnh hoạn cả tinh thần và thể chất, rồi cuối cùng chết đi,
đó là vòng tròn luân hồi khép kín mà khoa học không thể nào phá vỡ được.
Tóm lại khoa học dù có những tiến bộ
ngoạn mục, thần kỳ, tưởng có thể cướp quyền tạo hóa, nhưng thật ra vẫn
không thể giải quyết nhiều vấn đề rất cơ bản của con người, lý do là
Khoa học vẫn còn nhiều vướng mắc (chấp pháp,
cho rằng thế giới là có thật) và chấp ngã (cho rằng cái ta có thật) và
suốt đời con người chạy theo danh vọng, tiền tài, tính dục, rồi đến tổ
quốc, dân tộc, văn hóa, tôn giáo…và nhiều ảo vọng khác.
Chính vì Khoa học có những hạn chế
như vậy nên Phật giáo mới còn lý do tồn tại. Như trên đã nói, Phật giáo
chỉ là một thứ thuốc giả để trị bệnh giả của chúng sinh. Nói là giả, vì
thuốc và bệnh chỉ có trong tâm thức, trong
tưởng tượng của con người, chứ bản chất thực sự của thế giới là Không,
không có gì cả. Trong bài kệ nổi tiếng của Huệ Năng, có nói :
Bản lai vô nhất vật 本 來 無 一 物 Xưa nay không một vật
Hà xứ nhạ trần ai 何 處 惹 塵 埃 Bụi trần bám vào đâu ?
Phật giáo luôn luôn phá chấp, phá
cái tâm chấp ngã (cho cái ta là có thật), phá cái tâm chấp pháp (cho vũ
trụ là có thật). Kinh Kim Cang nói : Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm
(Không có chỗ trụ thì xuất hiện cái tâm đó) Cái
tâm đó chính là Phật tánh bất nhị, hoàn toàn không có chút gì hạn chế.
Không bị hạn chế bởi không gian, thời gian, số lượng, năng lượng. Không
có bắt đầu, không có kết thúc, không có quá khứ, hiện tại, vị lai gì cả.
Tâm đó đích thực là sức mạnh tạo ra Tam
giới, trong đó có vũ trụ của chúng ta, một cõi giới ảo cao cấp hơn thế
giới ảo của tin học hàng ngàn vạn lần . Vũ trụ chính là cái dụng của Tâm
bất nhị. Vô minh lại chính là điều kiện cần thiết để phát sinh vũ trụ.
Vũ trụ vạn vật cần hai cái vô minh để hiện
hữu : Một là vô thủy vô minh (Thiền gọi là thoại đầu), đó chính là cấu
trúc ảo của vật chất mà Immanuel Kant gọi là Das Ding an Sich (vật tự
thể) và cho là bất khả tri. Hai là nhất niệm vô minh tức là tâm niệm, ý
thức thông thường của chúng ta (Phật giáo gọi
là thế lưu bố tưởng). Nhất niệm vô minh được thành lập khi cấu trúc ảo
của vật chất hình thành được các cấu trúc ảo kỳ diệu là lục căn, trong
đó xuất sắc nhất là bộ não của sinh vật, tuyệt đỉnh là bộ não của con
người. Lục căn phối hợp với lục trần sinh ra
lục thức. 18 giới chính là bộ máy ảo hóa kỳ diệu có thể biến cái vô
thủy vô minh vốn không có gì là thực cả, thành ra vũ trụ vạn vật.
Khoa học khi đi sâu vào thế giới hạ
nguyên tử, thế giới lượng tử, mới bật ngữa, hiểu rằng vật chất không có
gì là thật cả, ý thức mới chính là căn bản của thực tại. Von Neumann
(1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary,
có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu :
“Nothing would be real unless consciousness exists, that all real
things are constituents of consciousness – which is a complete reversal
of materialism” (Không có cái gì là thật trừ
phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này
hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
Sự thật này khiến cho Vật lý học
hiện đại lâm vào khủng hoảng. Các khoa học gia hàng đầu thế giới hiện
nay, hiểu rằng toàn bộ lâu đài tri thức của nhân loại là xây trên cát.
Truyền Bình