TÌNH KHÔNG ĐẸP NHƯ THƠ
Chị
đến Mỹ muộn màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của chị đến Mỹ từ
lâu, họ làm bảo lãnh cha mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không được ưu
tiên cao, nên lá đơn bảo lãnh nộp sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37
tuổi, chị mới được đặt chân đến Mỹ.
Mười
hai năm chờ đợi ấy, chị đã phải hi sinh rất nhiều, không dám yêu ai và
chẳng dám đáp lại tình ai. Bố mẹ chị đã răn đe “ Bất cứ giá nào cũng
phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình, con nhé! không được yêu thương
thằng nào hết”. Chị vừa vâng lời cha mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng: “Thôi
thì ráng hi sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn
một tấm chồng, cỡ bác sĩ, kỹ sư…trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn
sớm, phải ở lại Việt Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm
thì vất vả cả đời”. Và chị hớn hở chờ đợi.
Qua Mỹ, đến nay đã 3 năm, chị đã sốt cả ruột mà chưa tìm đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy mà, ở Việt Nam,
người ta cứ đồn rằng qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm khoe con
em họ lấy chồng có đủ loại bằng cấp nọ kia, dù những cô gái may phước đó
chẳng đẹp hơn chị là bao ! Thì chị cũng có quyền hi vọng như thế lắm
chứ.
Bây
giờ chị mới hiểu rằng, người Việt Nam ở Mỹ, học hành,thành đạt thật
đấy, nhưng con gái Việt Nam ở đây không còn khan hiếm nữa, những thế hệ
sau này đã lớn lên, đủ “cung cấp” nhu cầu tại chỗ, chưa kể “thị trường”
trong nước Việt Nam thì vô tận, các cô gái trẻ đẹp luôn khao khát, chờ
mong được Việt Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.
Thế nên, chị lạc lỏng giữa dòng đời, giữa xứ Mỹ và giữa cái tuổi không còn trẻ và chưa đủ già của chị..
Nước
Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị
không có tay nghề, kinh nghiệm.Vốn liến tiếng Anh chỉ lưu loát được 3
chữ: “ No,Yes,Thank you”,nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng
đó từ chối. Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi
sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt Nam, họ
chỉ cần chị biết may, thế là đủ! Nên khả năng nói lưu loát 3 chữ “
No,Yes,Thank you”của chị vẫn dư thừa, để dành đó, không cần đụng tới.
Cả
ngày chị cặm cụi vào cái máy may, vào những miếng vải cắt sẵn, và dăm
ba câu chuyện vặt với người bạn may bên cạnh, dần dần cũng thành tẻ
nhạt, người ta có chồng có con, nên cứ nói đến đề tài này là chị “né”,
vì sợ động vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ còn một niềm vui duy
nhất đó là cuối tuần đi chợ, nhìn đủ các gương mặt lạ, những hàng hoá,
thực phẩm, để nghĩ đến những món ăn ngon sẽ nấu.Và nhất là xin được mấy
tờ báo, về nhà nằm khểnh đọc chơi !
Ở
thành phố này, có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ
cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền
thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ, mà nếu
không đọc gì hết cũng…chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi
gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi
nhét vào thùng rác.Tiện lợi mọi bề !
Thường
thì chị hay đọc mục “Tìm bạn bốn phương”, thấy người ta đăng báo tìm
bạn, chị cũng ham quá, nhưng vẫn thấy ngần ngại, sợ cha mẹ, anh chị biết
rõ “tâm địa” chị đang muốn lấy chồng, nên chị chưa bao giờ có ý định
đăng lên những lời khao khát của chính mình.
Một
hôm, chị ngồi buồn, chẳng biết làm gì, bèn gọt một trái xoài ăn chơi.
Trải tờ báo ra bàn, chị vừa gọt vỏ xoài vừa lơ đãng đọc một bài thơ nằm
chình ình trên trang báo trước mặt chị. Bài thơ than thân, trách phận và
oán đời, nghe mà não nề của tác giả Phong Trần.
Bài
thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong Trần càng làm chị xúc động
hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong Trần dày dạn gió sương, cũng đang là
một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị, chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng
những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho
nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi, ơ hờ như
thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ
sốt ruột thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong Trần cả.
Từ
hôm ấy trở đi, mỗi tuần chị đều chăm chú giở từng trang, tờ báo mà chị
đã “gặp” nhà thơ Phong Trần trong lúc gọt xoài, để tìm thơ anh. Chị đọc
từng chữ, từng dòng và ghiền thơ anh hồi nào không hay. Chị liền bạo
gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi thăm và xin số điện thoại của nhà
thơ Phong Trần với tấm lòng ái mộ. Chị không ngờ, cú phone đầu tiên
chị gọi nhà thơ Phong Trần được hân hoan đón nhận đến thế, nghe chị nói
rất thích thơ anh, nhà thơ Phong Trần đã kiên nhẫn chép tay cả chục bài
thơ và gởi bằng bưu điện cho chị.
Từ
đấy, ngành bưu điện đang hồi ế ẩm, bỗng nhiên vớ được hai khách hàng
chăm chỉ viết thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển giùm, và cũng từ đấy,
mỗi lần thơ anh đăng lên báo, đều ghi tặng tên chị phía dưới, những bài
thơ anh dịu dàng hơn, tình tứ hơn, làm chị cảm động.
Chị
mang đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị dò dẫm để khoe khéo
với bà thợ may bên cạnh, mà chị từng trò chuyện mỗi ngày:
- Nhà chị có hay đọc báo chí Việt Nam không?
- Có chứ, cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy bà. Cuối tuần có báo “chùa” đọc cũng vui.
- Thế chị có đọc tờ báo…
Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
- Đã
nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt
ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi
còn lấy dư, ê hề chật cả nhà..
Chị vừa trách vừa thấp thỏm vui mừng:
- Lần
sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người
ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong Trần không?
Bà bạn may khựng lại:
- Ủa!...thằng đó là thằng nào?
- Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong Trần là một nhà thơ…
Bà kia lại nhanh nhẩu:
- Ôi,
ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần
thôi hà. Thơ của thằng Phong Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò
gì với tôi hết.
Chị bực mình, nghĩ thầm “ Con mẹ này trước ở Việt Nam, chuyên mua bán ve chai, lông vịt, trình độ đâu mà đọc văn thơ?”.
Chị
lại gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được người “cao cấp” hơn sẽ hỏi.
Một hôm, có cặp vợ chồng , bạn của người anh, đến nhà chị chơi, cả hai
đều là kỹ sư điện, họ rất thân với gia đình chị, chị liền lân la đến gần
người vợ để chuyện trò:
- Chị ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ Phong Trần, đăng trên báo Việt Nam ở đây không?
Bà kỹ sư điện trả lời nhanh như điện:
- Chị
không có thì giờ đọc mấy bài thơ đăng trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng
ra thơ, vần một nơi, ý một nẻo, có đọc chỉ thêm bực mình !
Chị cố gỡ gạc, giải thích:
- Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong Trần có hồn lắm…
Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền, đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo.
Rồi bà hùng hồn chỉ trích:
- Báo
chí ở Mỹ ai làm chả được! Trước kia ở Việt nam, là một anh thợ mổ thịt
heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài
vở lên internet lấy xuống, hay dịch vớ vẩn từ báo Mỹ. Lại thêm có những
đứa dở hơi như nhà thơ Phong Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ, sáng tác
thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.
Chắc
bà kỹ sư ngày xưa thất tình một anh nhà báo, nên mới cay cú thậm tệ
giới này? Làm một tờ báo ít nhiều cũng phải có kiến thức hay năng khiếu
về báo chí, văn thơ, và nhất là lòng yêu nghề thì tờ báo mới sống còn.
Chị chẳng hơi đâu tranh luận vấn đề này làm gì !
Chị
buồn quá, thế là từ thành phần lao động đến trí thức, không ai biết đến
nhà thơ Phong Trần của chị cả, nói gì đến tên chị, đứng khiêm nhường,
bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của anh? Thì thôi, mình chị đọc thơ anh, mình
chị hãnh diện vậy.
Mối
tình thơ của hai người kéo dài được hơn hai chục số báo, và mấy chục lá
thư qua đường bưu điện, thì họ bắt đầu hẹn để nhìn mặt nhau cho thoả
lòng thương trộm nhớ thầm. Chị đã e ấp nhìn anh :
- Anh ơi,tại sao anh lấy bút hiệu Phong Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?
Anh trả lời thản nhiên:
- Có gì đâu, tên anh là Trần văn Phong !
Thì
ra thế! tên anh Trần văn Phong viết ngược theo kiểu Mỹ thành Phong
Trần, vô tình trở nên lãng mạn ,rất thích hợp cho một người làm thơ như
anh. Chứ anh có phải cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu của mình đâu !
Chị
không đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên nhưng hơi cứng tuổi, còn anh,
hơn chị đúng 10 tuổi, đã một đời vợ, li dị, hai con theo mẹ, cho nên mấy
năm nay anh trở thành người đàn ông độc thân, đi về một bóng, anh mong
có một người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho lòng anh đỡ trống trải.
Thế là họ không có gì để chê nhau cả, mối tình thơ đã đi đến đoạn kết mong muốn: Họ cưới nhau.
Chị
lấy anh vì sau 3 năm sống ở Mỹ, chị biết rằng khó có thể kiếm một tấm
chồng bằng cấp Bác sĩ, kỹ sư, khi tuổi chị đã xế chiều và nhan sắc chẳng
có gì đáng nhớ. Như món hàng ế ẩm, muốn bán được, cần phải hạ giá đến
đại hạ giá. Chị đã “on sale” cuộc đời chị, lấy một người chồng chẳng
những đã không bằng cấp mà còn có một quá khứ lòng thòng vợ con, dù anh
hết tình hết nghĩa với người vợ, nhưng hai đứa con, chắc vẫn đậu lại
trong lòng anh nỗi thương nhớ xót xa? Trái tim anh có yêu chị cách mấy,
đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về với hai con. Chị cũng đành thôi, ở
đời có gì tuyệt đối đâu?
Khi
đọc một bài thơ, không nhìn thấy tác giả, bài thơ hay sẽ làm rung cảm
lòng người, nhưng khi nhìn thấy tác giả thì những rung cảm ấy sẽ giảm đi
một ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả, thì bài thơ bỗng trần
trụi như đời thường của người đã sáng tác ra nó.
Những
ngày, những tháng trôi qua, chị không còn thấy thơ anh hay nữa, dù mỗi
khi đăng báo, anh vẫn đề tặng tên chị, và chị đã ngạc nhiên, không hiểu
sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?
Nhà
thơ Phong Trần mà chị ngưỡng mộ và yêu mến ngày nào, bây giờ là một
thằng đàn ông suốt ngày cởi trần trùng trục vào mùa Hè, anh mặc duy nhất
cái quần đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gío cũng có thể lung lay,
vậy mà trước kia anh đã làm bài thơ với câu: “Đôi vai anh sẽ là nơi em
tựa”. Thơ chỉ là bịa đặt và hoang tưởng.
Anh
thường ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm nhi ly trà
nóng vừa sáng tác thơ, trong khi ngoài bếp, chị đang nấu nướng, dao thớt
khua lên, chảo mỡ kêu ì xèo. Và trong phòng thì thằng cu Tí bé bỏng của
hai người đang nằm o oe chơi một mình, nhưng khi nó khóc ré lên, chính
anh là người phải vội vàng hạ chân xuống bàn, cắt đứt dòng tư tưởng đang
tuôn ra, để chạy lại tủ lạnh.lấy bình sữa, nhét vô miệng thằng con,
hoặc tệ hại hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời gian hơn,
xong việc thì ý thơ cũng bay xa.Tác phẩm bằng xương bằng thịt, đã hại
tác phẩm tinh thần của anh.
Có lần, anh ngồi lì để viết cho xong một ý thơ, không chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu Tí, thì vợ anh đã lớn tiếng:
- Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ…chết đói bây giờ.
Anh
tức giận nhìn “nàng thơ”của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào
những bài thơ của anh, bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn
sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc
tiền. Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống,
bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng
không cần thiết.
Một
buổi sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, lòng anh bỗng vu vơ cảm xúc
yêu thương khi nhìn ra ngoài trời những chùm lá cây đẩy đưa trong gió.
Anh thèm được rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh lẽo
ấy để tìm hơi ấm của lòng nhau. Anh phấn khởi hỏi chị:
- Em ơi, ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ ước gì không?
Chị đáp sỗ sàng:
- Mơ
ước có một tô phở nóng hổi với đầy đủ tương ớt, ngò gai, húng quế ngay
trước mặt để ăn cho ấm người chứ gì? Hôm nay tôi không có rảnh mà hầm
xương nấu phở cho anh đâu !
Trời ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả lòng, lạnh hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên vì gió lạnh ngoài kia.
Nhưng
cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài thơ anh đang viết dở dang,
những ý thơ chợt đến, anh đã ghi vội trên tờ giấy để trên bàn đã bị chị
“clean up” vứt vô thùng rác thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt
ruột, trách chị, thì chị nghênh mặt lên, đe doạ:
- Quý hoá gì? Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần sau anh còn để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa đó.
Anh
đành ngậm ngùi ra…moi thùng rác tìm lại mảnh giấy thơ lẫn lộn với những
tã dơ của Cu Tí, và những thứ rác rưới khác. Chị đâu biết rằng một cảm
xúc nào đó đã qua rồi đâu dễ gì tìm lại được nếu không ghi vội trên
những mảnh giấy kia.
Thỉnh
thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn,
một đứa còn đang học high school, thương con,anh muốn gởi cho nó một
hai trăm làm quà, “Nàng thơ” của anh đã trề môi mai mỉa:
- Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình nghĩa…Thế mới là vô giá .
Anh
đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại li dị? Cuộc đời đâu có
đủ dài cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi
trẻ con, thích đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?
Anh
vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi
bà ngoại chiều tối mới mang về.Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị
sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn, và có con muộn, nên muốn làm gấp rút, kiếm
nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là
mất luôn tháng đó. Ước mơ bình thường thế mà trời cũng không để yên. Anh
bị lay off, anh không có tội gì cả, hãng không có việc nên phải giảm
bớt nhân viên. Vậy mà chị đổ tội cho anh:
- Sao
bao nhiêu người, hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải
nghĩ thơ nghĩ thẩn, làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?
Anh
làm ngơ, chấp chi con đàn bà nông cạn! Anh lo đi làm giấy tờ xin hưởng
tiền thất nghiệp, rồi thủng thỉnh xin việc làm sau, nhân lúc rảnh rỗi
bất đắc dĩ này, anh nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc đời là thế, ngay cả khi
hoạn nạn, cay đắng cũng có thể thành thơ. Nhưng con vợ, không để anh
yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt, thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào
trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh đang làm gì đó?
Anh cười dù thật lòng chẳng muốn cười:
- Làm thơ !
Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
- Trời
ơi, không lo viết đơn xin việc mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được
không? Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?
Anh kiên nhẫn:
- Tất nhiên là không! Nhưng nó cho anh một niềm vui…
“ Nàng thơ” ngày nào của anh lồng lộn lên:
- Anh sống không có…lập trường như thế à?, phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ.
Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây
giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói “Mấy
đứa làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây…”
- Em
cứ làm như nếu anh không đi làm thì vợ con chết đói ngay ấy. Ở Mỹ,
chuyện lay off thất nghiệp, đến với tất cả mọi người, bất cứ lúc nào,
việc gì em phải đau khổ thế? rồi anh cũng sẽ xin được việc làm khác
thôi, nhưng trong lúc rảnh rỗi, anh vẫn có quyền mơ mộng, làm thơ. Thơ
đến với anh những lúc hạnh phúc và cả khi thất vọng, khổ đau…
Nhìn
vẻ mặt nghiêm trang của anh, nhìn đôi mắt anh ngời sáng long lanh đang
nhìn thẳng vào mắt chị với sự phản kháng âm thầm, chị bỗng
thấy…khớp không dám làm ầm ĩ thêm nữa. Chị chợt nhớ đã mấy lần mẹ chị
khuyên chị rằng: “ Mày có thằng chồng hiền lành, thương vợ thương con là
tốt phước rồi, đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn đến nước cùng cũng quay
đầu lại cắn chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó li dị, thì mày chỉ có
nước ôm con nuôi tới già. Còn nó, nếu ham vui như người ta, về Việt Nam lấy vợ trẻ, vợ đẹp thiếu gì”.
Cho
nên chị không dám quát tháo thêm nữa, chị đành bỏ đi làm việc khác sau
khi đã quẳng lại cho nhà thơ một cái nguýt mắt đầy đanh đá.
Một
mình anh ngồi lại, giận vợ nhưng cũng thương vợ, đàn bà thường thực tế
và nông cạn như thế. Anh hiểu, cái tình yêu thơ mộng mới ngày nào,
đã thay thế bằng những lo âu, toan tính trong cuộc sống, chị quá lo cho
gia đình, cho tương lai của con, chị sợ tuổi đời của cả hai người không
đủ dài để làm nên cơ nghiệp như chị mong muốn.
Trên
tờ báo hàng tuần vẫn tiếp tục đăng thơ anh, thơ anh vẫn tình tứ, vẫn
ướt át, nhưng nếu người ta để ý, thì dưới mỗi bài thơ, anh không còn ghi
lời tặng cho chị nữa.
Mục
tiêu của đời chị là có tiền để mua nhà, để dành lo cho tương lai thằng
Cu Tí, làm đến cả đời chưa chắc xong. Nên chị cần quái gì điều đó, cái
tên chị có dính trên báo cũng chả làm túi tiền chị tăng thêm một xu nào!
Những bài thơ của anh đã trở thành vô nghĩa, và mối tình thơ của chị đã chết tự lúc nào.
Nguyễn thị Thanh Dương