Wednesday, January 28, 2015

NGỌC HÂN CÔNG CHÚA ( Kim Chi Sưu Tầm )





NGỌC HÂN CÔNG CHÚA


Ngọc Hân công chúa là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông (1740-1786). Mẹ là bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, người xã Phù Ninh, tổng Hà Dương, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Vua Lê Chiêu Thống gọi công chúa Ngọc Hân là cô ruột. Công chúa thông minh từ bé, diện mạo thanh tú, xinh xắn.
Bản tính thùy mị dịu dàng. Được vua cha yêu quí đặt tên là Chúa Tiên và truyền cho nữ quan Lễ sư vào cung rèn cặp chữ nghĩa cho công chúa cùng dạy đủ môn: cầm, kỳ, thi, họa.
Chưa đầy 10 tuổi, công chúa đã thuộc làu kinh điển, thông thạo âm luật, giỏi thơ văn cả Hán lẫn Nôm, nhưng có sở trường về văn thơ Nôm.
Nữ sĩ công chúa thường cùng bà Lễ sư khi ngâm vịnh xướng họa, lúc đàn sáo véo von, hoặc thù tạc vui quân tướng sĩ.
Càng lớn, công chúa càng xinh đẹp nết na, duyên dáng đức hạnh, được tiếng thơm khắp hoàng cung; mọi người đều quí trọng.
Năm 1786 Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đem quân tiến ra Bắc với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", được vua Lê Hiển Tông phong tước "Phù chính dực Vũ uy Quốc Công" và gả công chúa Ngọc Hân mới 16 tuổi cho ông.
Sau hôn lễ con gái chẳng bao lâu, bỗng nhiên nhà vua bị bạo bệnh băng hà.
Đợi xong thất tuần vua cha, công chúa Ngọc Hân theo chồng về Phú Xuân, ở phủ Bắc Bình Vương.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân là Bắc cung Hoàng hậu, còn gọi Hữu cung Hoàng hậu.
Lấy chồng được sáu năm, công chúa Ngọc Hân sinh hạ hai người con. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Sau tang lễ, bà đau buồn âm thầm đặt riêng một lễ ở Hữu cung, đọc bài Văn tế tự soạn để khóc chồng! Thật là một chuỗi lâm li bi thiết, ví như:


"… Một phút mây che vừng Thái Bạch,
Trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.
Tơ đứt tấc lòng ly biệt.
Châu sa giọt lệ cương thường…
Và:
"… Liều trâm thoa mong theo chốn chân dung, da tóc trăm thân nào có tiếc.
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương".
(Trích Văn tế)


Tiếp đó, bà còn sáng tác thêm "Ai tư vãn" bằng văn quốc âm, thể song thất lục bát, dài 164 câu. Toàn bài tác giả đã vận dụng lời lẽ thật tha thiết mà rất chân thành, rất xúc động từ câu mở đầu:


"Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan hoa héo ron ron!
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu
Lúc thì chạnh nghĩ mối duyên may mình đã được trải qua:
"… Rút dây vâng mệnh phụ hoàng
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu qui
Trăm ngàn dặm quản chi non nước
Chữ nghi gia mừng được phải duyên
Sang yêu muôn đội ơn trên
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm…
(Trích Ai tư vãn)
Khi lo lắng thuốc thang cho chồng (vua Quang Trung):
"Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiết bao kinh sợ lo phiền
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Thoắt lại mơ tưởng lúc chồng vẫn còn sống:
"… Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu
Vội vàng sửa áo lên chầu
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng
(Trích Ai tư vãn)
Tác giả lại ngậm ngùi trách tạo hóa hẹp hòi… và tha thiết xin thay mạng:
"… Công dường ấy mà nhân dường ấy
Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Rồi còn muốn liều thân:
"… Quyết liều mong ven chữ tòng
Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e"
(Trích Ai tư vãn)
Nhưng còn vướng víu chỉ vì con nhỏ:
"… Còn trứng nước thương vì đôi chút
Chữ tình thâm chưa thoát được đi
Vậy nên nấn ná đòi khi
Hình dường còn ở, hồn thì đã theo;
Mặc dầu biết chắc còn sống thì sẽ nhiều khổ đau oan nghiệt:
"Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng.
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau! ..."
(Trích Ai tư vãn).

Nữ sĩ Hoàng hậu Ngọc Hân bị bệnh mất ở Phú Xuân năm Kỷ Tị (1799). Bà mất sau vua Quang Trung 7 năm, được tôn Miếu hiệu là Như Ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Lúc đó triều đình cử danh sĩ Phan Huy Ích soạn 5 bài Văn tế bằng Quốc âm để tế Hoàng hậu Ngọc Hân. Đầu tiên là bài cho vua Cảnh Thịnh đứng tế, trong có đoạn: 

"… Giọt ngân phái câu nên vẻ quí, duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề; Khúc thư châu thổi sánh tiếng hòa, khuôn nội tắc đã gây nền nhân nhượng".
"Hồ đỉnh ngậm ngùi cung nọ, những rắp chìm châu nát ngọc vốn từng nguyền; Cung khôn bận bịu gối nao, ép vì vun quén quế lan nên hãy gượng.
"Nẻo thuở doành Hoàng phô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân; Trải phen bến Vỵ đưa duyên, phím sắc xoang cầm vây một thể.
"Dầu gót ngọc vui miền Tịnh độ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ. Dẫu xiêm nghe mến cảnh Thanh Đô, nỡ nào lãng một bóng tang du hầu xế…".


Còn lại 4 bài văn tế nữa, dành cho các vị:
- Mẹ Hoàng Hậu Ngọc Hân là Phù Ninh từ cung đứng tế.
- Các công chúa con gái vua Quang Trung đứng tế.
- Bà con quê ngoại ở Phù Ninh đứng tế.


Theo Quách Tấn, trong "Dụ am văn tập" của danh sĩ Phan Huy Ích còn chép đầy đủ bài Văn tế Vũ Hoàng Hậu cùng năm mất của bà là 1799.
Thế nhưng lại có một vài nhà viết sử, văn học sử đã nêu hai giả thuyết khác nhau không có cứ liệu chính xác:
- Nào là: "Ngọc Hân công chúa bị Gia Long bắt truyền nạp vào hậu cung! ... và bà có thêm 2 con với vua Gia Long…".
- Nào là khi thành Phú Xuân thất thủ, Hoàng hậu Ngọc Hân cùng 2 con cải trang dắt nhau chạy vào Quảng Nam ẩn náu; ngay sau đó cả 3 mẹ con bị bắt và bị triều nhà Nguyễn gia hình được tự chọn cái chết trong tam ban triều điển! ...".
Xin nói niên lịch bà Hoàng hậu Ngọc Hân mất là năm Kỷ Tỵ (1799). Cách hai năm sau, Chúa Nguyễn Phúc Ánh mới lấy được thành Phú Xuân, đó là năm Tân Dậu (1801).
Nhà Nguyễn diệt nhà Tây Sơn năm Nhâm Tuất (1802).
Như vậy bà Ngọc Hân không hề lấy vua Gia Long bao giờ, vì bà đã mất trước khi nhà Nguyễn chiếm ngự Phú Xuân.
Phần văn chương trong Ai tư vãn của nữ sĩ Hoàng hậu Ngọc Hân, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: "… văn phong vừa điêu luyện vừa bình dị…".
Ta còn thấy rõ từng nét đau th
ương tha thiết của một góa phụ trẻ trung vương giả. Mặt khác còn nổi bật tình nhà, tình nước, sểnh đàn tan nghé! nỗi nước chông chênh! 
Và điều rõ nét nhất ta thấy được ở tác giả Ai tư vãn: bà đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của Chinh phụ ngâm.
Riêng bài Văn tế của nữ sĩ Hoàng hậu Ngọc Hân lại mang nặng tính chất bác học. Văn vẻ sắc bén vững vàng; chứng tỏ được tài Hán văn của bà.
Bà xứng danh là bậc nữ lưu văn học uyên bác ở cuối thế kỷ 18.




NGỌC HÂN – GIA LONG


 Trong lịch sử cận đại Việt Nam, hễ nói đến công chúa con vua mà lại lấy hai chồng làm vua là người ta nghĩ ngay đến công chúa Lê Ngọc Hân, con vua Lê Hiển tông, gả làm vợ vua Quang Trung. Nhưng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, Ngọc Hân được hoàng đế Gia Long lập làm Ðệ Tam cung...

Số đâu có số lạ đời
Con vua mà lại hai đời chồng vua.


Thực hư chuyện này là thế nào? Mặc dù có người đã giải thích nhân vật ám chỉ trong câu ca dao trên là Lê Ngọc Bình, em ruột của công chúa Ngọc Hân. Nhưng tội nghiệp, điều này vẫn không giải được án tình cho Ngọc Hân trong dư luận của người dân xứ Huế một thời.




Trang tình sử bi hùng...

Lê Ngọc Hân (1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu ; là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên.
Dưới thời Tây Sơn, có hai phụ nữ nổi danh làm rạng rỡ cho truyền thống phụ nữ Việt Nam là nữ tướng Bùi Thị Xuân và nữ sĩ tài hoa Lê Ngọc Hân. Nhưng cuối cùng, cả hai bà và gia đình đều phải chịu cảnh đắng cay thê thảm hiếm có trong lịch sử.
Có thuyết cho rằng, vào năm Nhâm Tuất (1802), triều Tây Sơn bị diệt, Gia Long bắt được Ngọc Hân công chúa, thấy nàng có nhan sắc kiều diễm, có sức quyến rũ các bậc tu mi, đã không kìm được xúc động trong buổi sơ ngộ tại Phú Xuân. Gia Long đưa truyền nộp công chúa vào cung. Tả quân Lê Văn Duyệt can “không nên lấy vợ thừa của giặc” nhưng nhà vua không chịu nghe, lại đáp: "Tất cả giang sơn này, cái gì không lấy từ trong tay giặc, cứ gì một người đàn bà?"
Vào cung, Ngọc Hân sinh cho vua Gia Long hai con là Hoàng tử Thường Tín và Quảng Oai.
Như vậy, đây có thể xem là một trang tình sử bi hùng giữa công chúa Ngọc Hân và vua Gia Long - đã được thi vị hoá và hiện thực hoá - nên được nhiều người kể, nhiều người ưa nghe và có nhiều sách vở biên chép. Năm 1941, trong tập san B.A.V.H . (Đô thành hiếu cổ) xuất bản ở Huế có bài viết của Phạm Thường Việt, với nhan đề Les caprices du génie des Mariages ou extraordinaire destinée de la princesse Ngọc Hân (Sự trớ trêu của ông tơ, bà Nguyệt hay duyên số kỳ lạ của Công chúa Ngọc Hân). Ở đây, ông Thường lần nữa lại cho rằng người lấy vua Gia Long là công chúa Lê Ngọc Hân. Tiếp đến, năm 1961, nhà sử học Nguyễn Thiệu Lâu vẫn cho rằng, Ngọc Hân công chúa đã lấy Gia Long là chuyện có thật.

... Hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử

Tất cả những câu chuyện về chung cục bi thương huyền hoặc của công chúa Lê Ngọc Hân là hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử.
Mộ Ngọc Hân Công Chúa hiện ở xã Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) .
Sau ngày đại thắng, Quang Trung về Phú Xuân tiến phong Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng hậu. Ngọc Hân được hưởng những năm tháng tràn đầy hạnh phúc bên người chồng anh hùng. Bà sinh được hai người con, một gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (SN 1788) và một trai là Nguyễn Quang Đức (SN 1790). Tuy nhiên, hạnh phúc đó không được bao lâu.
Tháng 9/1792, vua Quang Trung đột ngột từ trần. Mới 22 tuổi đầu, với hai đứa con thơ một lên 4 và một lên 2, Ngọc Hân trở thành goá bụa. Trong nỗi nhớ thương chồng vô hạn bà đã viết nên bài "Ai tư vãn" có những câu như sau :
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình

Tình cảm đau xót triền miên dần hút hết sinh lực của bà. Và thế là 7 năm sau (năm 1799), Ngọc Hân từ trần khi mới 29 tuổi đời. Hai năm sau (1801), Nguyễn Ánh tấn công vào Phú Xuân, vua tôi Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc Hà. Hai con của Ngọc Hân còn thơ ấu đều bị bắt.
Rõ là, công chúa Lê Ngọc Hân đã mất dưới triều vua Cảnh Thịnh, nghĩa là trước khi kinh thành Phú Xuân thất thủ 16 tháng thì làm gì có câu chuyện bà phải lâm cảnh bôn ba lưu lạc sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, để rồi phải làm vợ của hoàng đế Gia Long. Bà đã được truy tặng là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu; được ma chay tống táng tại kinh thành theo đúng nghi thức vương giả dành cho một bậc mẫu nghi thiên hạ. Bằng chứng hùng hồn là bài văn tế Vũ Hoàng Hậu tìm thấy trong Dụ Am Văn Tập của Phan Huy Ích, mà Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm đã công bố trên tạp chí Tri Tân vào năm 1943 tại Hà Nội.
Một sĩ quan Pháp là Barizy theo chân Gia Long Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, có đến nhà tù giam những người con của vua Quang Trung, đã mô tả lại trong thư của ông viết vào ngày 16/7/1801: "... Họ ở trong một căn phòng hơi tối, có tất cả 5 công chúa, một cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân), em này cũng coi được... Ngoài ra, còn có 3 con trai, có một em độ 16 tuổi da nâu nhưng nét mặt tầm thường. Còn em trai kia độ 12 tuổi là con bà công chúa Bắc Kỳ thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương".
Sách Đại Nam thực lục chính biên chép, cả con trai và con gái của Ngọc Hân đều bị bắt khi Nguyễn Ánh tấn công chiếm Phú Xuân vào tháng 5/1801 và sau đó, bị giết vào tháng 11/1801.

Tại sao Lê Ngọc Bình bị "biến" thành Ngọc Hân công chúa?

Lê Ngọc Bình (sinh năm 1783), công chúa con vua Hiển tông nhà Hậu Lê, em ruột công chúa Lê Ngọc Hân, là Chính cung Hoàng hậu vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) nhà Nguyễn Tây Sơn và Ðệ Tam cung của vua Gia Long.
Theo Kể chuyện các vua Nguyễn, cuộc tình duyên của bà Lê thị Ngọc Bình với vua Gia Long khá lạ kỳ. Tháng 5/1801, khi Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân, vua Quang Toản bỏ chạy ra Bắc Hà, Ngọc Bình và một số cung nữ bị kẹt lại Phú Xuân. Thấy nàng là một người con gái trẻ đẹp, ăn nói dịu dàng, dáng điệu thướt tha, Gia Long rất ưng ý. Mặc cho các cận thần nhà Nguyễn kịch liệt phản đối, Gia Long bỏ ngoài tai tất cả. Ngọc Bình được nạp làm phi và sau đó được phong làm Đệ tam cung Đức Phi (đứng thứ ba sau hai bà hoàng hậu là Thừa Thiên, mẹ hoàng tử Cảnh và Thuận Thiên, mẹ vua Minh Mạng).

Vua Quang Trung và Vua Gia Long

Bà Ngọc Bình sinh được bốn người con. Hai hoàng tử là Quảng Oai công Nguyễn Phúc Quân (1809) và Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự (1810). Hai công chúa là Mỹ Khê Ngọc Khuê và An Nghĩa Ngọc Ngôn. Đức phi Ngọc Bình mất vào năm 1810, sau khi sinh hoàng tử Phúc Cự. Năm ấy bà mới 27 tuổi.
Sách Quốc sử di biên và một số tư liệu khác cho hay, chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng rất căn bản. Hai bà đều là công chúa con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, sinh trưởng ở ngoài Bắc; lớn lên hai bà đều lấy chồng là hoàng đế nhà Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là hoàng hậu Phú Xuân. Do đó, những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời hai bà cứ đan kết vào nhau, theo không gian và thời gian mà dần dà thay đổi, để rồi lẫn lộn và cuối cùng, chuyện có thật về người này trở thành huyền thoại của người kia. Nói rõ hơn, công chúa Lê Ngọc Bình chính là người phụ nữ lạ thường "con vua lại lấy hai đời chồng vua".