Chuyện
ông Tư chết mà vui
Ông Tư bị ung thư và biết chắc
không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống
những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi
chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận
kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là
họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng,
ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết ?
Nếu theo đạo Phật, thì khi chết
cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai
? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví
như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên
bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác
mới hơn.
Ông Tư nói với bạn rằng, thân
xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn
che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.
Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ
cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng
người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường
để lựa chọn.
Một là rầu rĩ bi ai, than thân
trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u
ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với
thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui,
tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng
bận.
Ông chọn con đường sau, nên
không buồn bã , không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu
hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn
lại.
Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc
vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông
nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân
thương, cũng không còn làm được nữa.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng
đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ
phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ
báo cho bà, và nói:
Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy
đây, đọc thấy buồn cười :Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc:
Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82
tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo
tin? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn ?
Đáng ra phải cáo phó bằng câu :
" Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ
đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng "
khóc báo " với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về
cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì
?
Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái
khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh
nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình
có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tĩnh an nhiên, chắc
rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ
sạch nợ đời.
Cuộc đời, có thể ví như một đêm,
không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ.
Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi
buồn gặm nhấm.
Nhiều người sống với thái độ như
sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm
nhiều điều không đúng, không phải. Bởi vậy, khi biết mình sắp chết, thì hốt
hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng
muốn sống đời, nên uống thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.
Thấy ông tươi vui, người biết
ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh
trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi
chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du
thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho
đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ
chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho
vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình
tĩnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về
kinh nghiệm của những kẻ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó.
Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung
sướng, khoái cảm tràn trề. Bởi vậy , nên người đã trải qua cận tử, thì không còn
sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất.
Về việc đóng tiền cho người
khác để mua hòm và mai táng
Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ
thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và
lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì.
Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn
răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo,
chứ có sung sướng gì đâu.
Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa,
xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải
có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước
đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra
đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẳng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn
đói chết hết sao?
Nhiều xứ văn minh hiện nay,
người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết
được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng
những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình
cho thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi : - Có phải người
theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và
được sống lại. Bởi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành
tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói
:
- Chờ đến ngày phán xét cuối
cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có
lẽ những kẻ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng?
Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại
trên bộ xương đó được ? Bởi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi
nhất.
Câu chuyện bàn rộng đến phong
trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều
làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn,
thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là
Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ.
Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả
cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng
thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho
thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con
cháu chăm sóc đến bao giờ ?
Rồi cũng có ngày trở thành hoang
phế, chẳng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng
liêng như đền quốc tổ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước,
mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ,
không ai chăm nom.
Huống chi mình, là thứ thường
dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẻ là tội đồ của dân tộc,
bày đặt xây lăng ướp xác. Bởi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho
ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn
về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để
dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo
tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu
trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng
thử.
Trong giới bạn bè thân tình, có
người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn
hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù
có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đỡ mệt trước khi thuyền
chìm.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông
Tư tại nhà, khi bước vào cổng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẻ buồn rầu,
nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào.
Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẳng ra từ bên trong, hòa với tiếng
nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vã
xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách viếng tang
được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng
được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ
đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa.
Không thấy quan tài ông Tư đâu
cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió
lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui
vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Khi Tôi
Chết
Nếu làm biếng,
cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi,
vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm.
Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son,
trát phấn cũng thâm chì.
Tôi đi trước,
hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi
mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người
sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là
khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc,
khóc cho người còn lại,
Bởi từ
nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát,
dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau,
hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo,
phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường
tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo,
giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn
những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui
cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh
sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống,
xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn
hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ,
khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm
hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng,
thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã
chết tự sơ khai.
Khi tôi chết
đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn,
tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển,
cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn
tha thiết chút tình mê.
Thì cũng C, H,
Ô, N kết lại,
Nắm tro xương
hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ
chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù
cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ, có người
thì mĩm cười, có người vui hẳn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã
nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương
tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên
mặt.
Vợ con người chết cũng không tỏ
vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui
vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử
hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên
bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói
:
- Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà
con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng
tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm
tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng
tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn
bè.
Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui
vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của
cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông
đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có
chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác
nghe.
( Ông Tư đọc bài thơ trên
)
Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và
ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi
mãi sống muôn đời, Kẻ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm
cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài
thơ.
Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ,
hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các
ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm
hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông
nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.
Một bạn thân của ông Tư, quen
nhau từ thuở trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro
xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó,
chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui,
mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi
cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy,
thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
Một vị mục sư là bạn thân của
gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoán chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về
với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt,
đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.
Một vị sư già, có bà con họ hàng
với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh
vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu
siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí
chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản
ra đi như kẻ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô
thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng,
tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiễn
khách.
Khi tôi chết, viếng tang đừng
buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu
vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi
hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi
tiễn đưa.
Cuộc đời này chỉ là 1 giấc
mơ. Có nhiều người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...
Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm
rồi, mới nhìn lại được quãng đời mình. Như
1 cuốn phim, quay chậm...
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp
mặt nào rồi cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.
Và con người nào rồi cũng trở
thành cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được.
Có quan niệm được điều này
(không qua nói miệng) trong mỗi ngày, trong hành động, và từng hơi
thở..
Thì sẽ tìm được hạnh phúc không
xa...