ỨC TRAI THI TẬP - NGUYỄN TRÃI
(1380 – 1442)
Nguyễn
Trãi (阮廌) hiệu là Ức Trai (抑齋). Tiên sinh người xã Nhị Khê, huyện
Thượng Phúc (nay là phủ Thường Tín, Hà Đông). Năm 21 tuổi (1400) ông thi
đậu Thái-Học sinh (tương đương Tiến Sĩ các thời trước) năm đầu đời Hồ
Quý Ly (niên hiệu Thánh Nguyên) được bổ làm Ngự sử đài chính chưởng. Cha
ông là Nguyễn Ứng Long hiệu là Nhị Khê, sau đổi là Nguyễn Phi Khanh, là
một nho sinh học giỏi được quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán mời dạy trong tư
dinh rồi kết hôn với Trần Thị Thái, con gái thứ ba của hoàng thân nhà
Trần này.
Khi
nhà Minh thôn tính nước ta, bắt những người tài giỏi sang Trung Quốc,
trong đó có Nguyễn Phi Khanh, ông theo lời cha lo việc phục thù, giúp
nước. Ông từng bị quân Trương Phụ bắt đưa về thành Đông Quan (tức Thăng
Long) sau được tha và tìm cách vào Lam Sơn (Thanh Hóa – 1418) giúp Lê
Lợi mười năm khởi nghĩa chống quân Minh. Nguyễn Trãi là một nhà mưu lược
và giỏi chính trị trong việc lập kế sách, vận động quân sĩ, đấu trí với
quân xâm lược. Khi Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Lê Thái Tổ (1428), nhờ
công lớn, ông được đổi theo họ nhà vua là Lê Trãi, được phong tước Quan
Phục Hầu và làm quan Nhập nội hành khiển (Tể tướng). Năm 1429, tướng
Trần Nguyên Hãn, anh em bên ngoại của ông, đang là Thượng thư Bộ Binh bị
Lê Thái Tổ nghi ngờ làm phản bắt phải tự vẫn. Nguyễn Trãi bị bắt giam,
sau được trả tự do nhưng bị thất sủng. Năm 1439 (60 tuổi) ông xin về trí
sĩ ở Côn Sơn, nơi ông ngoại mình là Trần Nguyên Đán từng ở ẩn. Khi Lê
Thái Tông trưởng thành nắm lại quyền vua từ tay phụ chính chuyên quyền
là Lê Sát, ông theo lời mời của vua ra giúp nước. Nhưng Lê Thái Tông là
một ông vua đam mê tửu sắc, không quan tâm lo lắng việc nước, nên Nguyễn
Trãi một lần nữa xin về trí sĩ ở Côn Sơn. Dầu vậy, năm sau, vua lại
triệu ông về giữ chức giám sát vùng Đông Bắc và được lấy Côn Sơn làm
dinh. Năm 1442, Lê Thái Tông đi tuần thú vùng Chí Linh, có một người
thiếp xinh đẹp của Nguyễn Trãi là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ theo hầu.
Khi nghỉ đêm ở Lệ Chi viên, Lê Thái Tông bị bệnh và mất tại đây. Triều
đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh nắm giữ, vì thù ghét Nguyễn Trãi và
Nguyễn Thị Lộ đã cứu cung phi Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Dao (là mẹ của vua Lê
Thánh Tông sau này) thoát tội chết nên đã làm án vu cho hai người tội
âm mưu giết vua phải “tru di tam tộc”. Ông mất vào ngày 16 tháng 8 năm
Nhâm-Tuất (19-9-1442) thọ 63 tuổi. Năm 1464, Lê Thánh Tông khi nắm quyền
bính đã thấy rõ nỗi oan của ông nên xuống chiếu giải oan và truy tặng
chức Vinh Lộc Đại Phu, tước Tế Văn Hầu.
Nguyễn
Trãi không những là một người giỏi chính trị, quân sự, ngoại giao mà
còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận xuất chúng nữa. Tiếc thay, văn
thơ của ông sau vụ án Lệ Chi viên đã bị thất lạc rất nhiều. Mãi đến
những năm thời Minh Mạng, Tự Đức triều Nguyễn (tức gần 400 năm sau khi
ông mất), các ông Dương Bá Cung, Nguyễn Định và Ngô Thế Vinh mới sưu tập
và khảo chính được các văn thơ còn lại của Nguyễn Trãi tập họp thành bộ
ỨC TRAI DI TẬP cho khắc in vào năm 1868.
1) Về Hán Văn : gồm các tác phẩm chính còn lại:
a- Ức Trai Thi Tập (抑齋時集): gồm hơn 105 bài thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn.
b-
Văn loại (文類): gồm các bài viết quan trọng như Bình Ngô Đại Cáo (1427),
Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đạo bi ký (1433), Băng Hồ di sự lục (Băng Hồ là
hiệu của ông ngoại Nguyễn Trãi tức Trần Nguyên Đán), Phú núi Chí Linh,
Lam Sơn Thực lục.
c-
Quân Trung từ mệnh tập (軍中詞命集): do Trần Khắc Kiệm sưu tầm thời Hồng-Đức
(Lê Thánh Tông) gồm các thư gởi cho tướng nhà Minh và các bài hịch
tướng sĩ. Đó là một tài liệu quan trọng về mặt ngoại giao, chính trị,
quân sự đời hậu Lê.
d- Địa dư chí (與地志) : là bài văn khảo sát về địa dư nước ta dâng lên Lê Thái Tông năm 1435.
2)
Về văn Nôm: Quốc Âm Thi Tập (國音詩集) được xem là tập thơ chữ Nôm phong
phú nhất sau các bài thơ rải rác của các tiền bối như Nguyễn Thuyên,
Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Ly, Chu Văn An… đời nhà Trần. Quốc Âm Thi Tập gồm
263 bài thơ còn lại của Nguyễn Trãi được sưu tầm lần lượt nhờ công của
Nguyễn Năng Tĩnh, Ngô Thế Vinh, Dương Bá Cung ở thời vua Minh Mạng và Tự
Đức. Năm 1956, hai ông Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm đã phiên âm,
chú giải và xuất bản tập thơ Nôm này.
Đọc
ỨC TRAI THI-TẬP, trước hết, chúng ta nhận thấy ở nơi con người Nguyễn
Trãi đã có một niềm tự hào sâu sắc về việc gìn giữ nền độc lập của dân
tộc và đất nước. Lòng yêu nước của Ức Trai tiên sinh đã tiếp nối truyền
thống anh hùng từ các bậc hào kiệt đi trước như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền,
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo v.v… Với công cuộc đánh đuổi giặc Minh
xâm lược ra khỏi bờ cõi, rửa được mối nhục ngàn năm trước, chúng ta đã
thấy rõ niềm tự hào ấy:
“…Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ,
Kim quỹ chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tùng thử liễu,
Thế gian na cánh sổ anh hùng”
(Đề kiếm)
Dịch thơ:
“…Nghìn năm thù nước rửa rồi,
Tráp vàng cất giữ muôn đời chiến công.
Đất trời xếp đặt đã xong,
Cõi đời đếm được anh hùng bao lăm”
(Đề kiếm)
Cuộc
kháng chiến bảo vệ nền độc lập của dân tộc đầy gian lao của Lê Lợi đi
đến thành công có sự đóng góp to lớn của mưu thần Nguyễn Trãi. Sử sách
muôn đời sau chắc chắn sẽ ghi nhận công lao và chiến tích này. Con người
tiên sinh luôn luôn thể hiện tinh thần của một nhà nho chân chính, một
kẻ sĩ đúng nghĩa đề cao lòng nhân nghĩa trong việc bảo vệ đất nước cũng
như khi đất nước được hưởng thanh bình:
“Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian,
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an”
(Hạ quy Lam Sơn –I)
Dịch thơ:
“Trừ gian dùng đến mưu quyền,
Lẽ nhân nghĩa giữ nước yên vui đời”
(Mừng về Lam Sơn – Bài 1)
Và
để giữ cho nước được yên ổn, quê hương được thanh bình luôn luôn là
niềm mong ước của dân tộc ta, việc rèn luyện binh sĩ, tăng cường quân bị
là mối quan tâm hàng đầu. Do đó, việc đánh tan giặc phương Bắc hùng
mạnh từng bao lần rắp tâm xâm chiến nước ta đã là nỗi tự hào cao độ tràn
ngập trong giọng thơ Ức Trai tiên sinh:
“…Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san”
(Hạ quy Lam Sơn – I)
“Kình”
là con cá voi to lớn, mạnh mẽ, khi bơi tạo ra lớp sóng cuồn cuộn, “sóc
tẩm” là khí xấu từ phương Bắc. Cả hai đều chỉ về một thế lực thường
xuyên đe dọa nền độc lập và hòa bình của đất nước ta. Kinh nghiệm của
cha ông ta xưa kia và kế tục ở thế hệ Nguyễn Trãi cũng như về sau là
luôn luôn cảnh giác đề phòng những toan tính của ngoại bang tìm cách uy
hiếp hoặc xâm chiếm đất nước. Việc một nước nhỏ sống bên cạnh một nước
lớn từ mấy ngàn năm nay mà vẫn tồn tại đã cho thấy tinh thần quật cường
mãnh liệt của một dân tộc. Và tồn tại được là nhờ một phần có sự đóng
góp không nhỏ của các bậc anh hùng, hào kiệt như Nguyễn Trãi và biết bao
sự hy sinh của con dân nước Việt. “Nam châu vạn cổ cựu giang san” là
tiếng nói hào hùng, đầy khí phách của một kẻ sĩ đã góp phần hoàn thành
nhiệm vụ giành lại được đất nước sau khi bị giặc Minh xâm lấn. Vì thế,
nếu muốn bờ cõi trời Nam được yên ổn muôn đời sau thì việc phải sẵn sàng
chiến đấu, rèn luyện binh sĩ trong thời bình phải được chú trọng:
“Bắc Hải đương niên dĩ lục kình,
Yến an do lự cật nhung binh”
(Quan duyệt thủy trận)
Đất
nước xinh đẹp đã sạch bóng quân thù và là một thực thể thống nhất từ
Nam chí Bắc. Các nước chung quanh ở phía nam hay phía tây, biển đông hay
bờ bắc đều giao hảo tốt đẹp. Trong không khí hòa bình ấy, Ức Trai tiên
sinh đã viết:
… “Hồ Việt nhất gia kinh hạnh đổ,
Tứ minh tùng thử tức kình ba”
(Quá Thần Phù hải khẩu)
Đồng
thời, khi đọc ỨC TRAI THI-TẬP, chúng ta thấy Nguyễn Trãi luôn đề cao
việc lấy “văn trị” và “nhân nghĩa” để sửa sang việc “an dân trị nước”:
… “Thánh tâm lục dữ dân hưu tức,
Văn trị chung tư trí thái bình”
(Quan duyệt thủy trận)
Dịch thơ :
… “Lòng vua rất muốn dân an,
Thái bình rốt lại lấy văn sửa đời”
(Xem bày trận dưới nước).
“Văn
trị” ngược lại với “Võ trị”, vì “Văn trị” là lấy đức độ, lòng tôn trọng
muôn dân bá tánh và chính sách thuận lòng người để cai trị. Nói khác
hơn đó là con đường “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà
thay cường bạo” (Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi dịch
cường bạo – Bình Ngô Đại Cáo). Và “Văn trị” là làm cho dân được nghỉ
ngơi, sống an lạc yên vui trong thời bình bằng những chính sách hợp lòng
dân, vì “ý dân là ý trời” theo cách nói từ ngàn xưa. Do đó, Ức Trai
tiên sinh rất coi trọng sức dân như là động lực để giữ gìn non sông .