Áo dài Việt Nam – những chặng đường lịch sử.
Ngược
dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà
áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống
đồng và hiện vật Đông Sơn cách ngày nay hằng nghìn năm
(2879.BC-258.BC):
Trang phục Việt cổ thể hiện trên kiếm đồng Đông Sơn.
.
Truyền thuyết kể lại rằng khi cưỡi voi xông trận, Hai Bà Trưng (40-43.AD)
đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng. Do tôn kính hai bà, phụ
nữ Việt xưa tránh mặc áo hai tà mà thay bằng áo tứ thân.
Theo
thời gian, trong khoảng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, để có dáng dấp
trang trọng và mang vẻ quyền quý hơn, phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu
kiểu áo ngũ thân từ chiếc áo dài tứ thân nhằm thể hiện sự giàu sang cũng
như địa vị xã hội của người phụ nữ. Giống như một quy luật, trang phục
cũng đi liền với diễn biến của lịch sử, chiếc áo dài ngũ thân vẫn không
thể là điểm dừng của trang phục truyền thống Việt Nam.
Áo dài tứ thân.
.
Trong sách “Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine”, xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: “Người
ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu… Phần
dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi
lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt…”
Có
lẽ giáo sĩ Borri đã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt xưa mặc mỗi
khi ra ngoài. Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên
dưới thắt lưng mà giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc
có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt
lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên
nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn dần. Bức
tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Bắc Ninh, là minh chứng rõ
nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sĩ
Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước đây.
Tượng Ngọc Nữ (thế kỷ 17)
Năm
1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở
Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát
người dài đến mắt cá chân.
Cho
đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể
năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại
với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong
thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa
chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát
người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo
may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 –
3cm.
Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 – 1920,
phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài
khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để
diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng.
Phần
nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong
cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị
thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã
thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó,
phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi
phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay
mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với
ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Trong
các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều,
gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với
quần trắng hoặc đen.
Những cách tân đầu tiên
Một
vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần
như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được
khổ rộng hơn. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở
phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939 nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài
được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫn
giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét
hình trái tim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ.
Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên
phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.
Thiếu nữ Hà Nội xưa với áo dài Lemur
.
Đến khoảng năm 1950, sườn
áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo
lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, để áo ôm theo
thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được
cắt ngắn dần từ giai đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được
hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60,
áo dài bắt đầu được may chít eo, eo áo cắt cao lên. Gấu áo lúc này cắt
thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều người sau đó còn may
áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành
thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng
hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo
thấp xuống còn 3cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt trong khoảng
thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo
ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo được nối với thân từ chéo
vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi được lót hai ba
lớp. Đến những năm 90, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn và
bắt đầu được bạn bè Quốc Tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ
nữ Việt Nam.
Phục lục : Một vài hình ảnh áo dài Việt Nam xưa và nay: