NHỚ VỀ LỚP ĐỆ NHẤT B “ĐẶC
BIỆT”
Khi những chùm hoa phượng lập
loè gọi hè về là khi mùa mưa đã đến và cũng là mùa nghỉ hè của lứa tuổi hoa
niên.
Lòng chợt bâng khuâng khi nhớ
về lớp cũ trường xưa một thuở. Lời hát nào vọng mãi với tháng năm “Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần
gũi nhau mất rồi. Tạ từ là hết người ơi. Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng.
Có ai còn nhớ đến ân tình không?”.
“Có ai còn nhớ
đến ân tình không?” Riêng
tôi nhớ hoài lớp đệ nhất B (lớp 12 Ban Toán) niên khoá 1969 – 1970 nơi ngôi
trường Hoàng Diệu thân thương. Bởi vào thời điểm ấy, hầu hết nữ học lớp đệ nhị
B (lớp 11 Ban Toán) đậu Tú tài I đều chuyển qua lớp đệ nhất A (lớp 12 Ban Vạn
Vật). Vì vậy, niên khoá 69 – 70 này chỉ có 49 học sinh ghi danh học đệ nhất B.
Điều đặc biệt là chỉ có một nữ sinh duy nhất là Trần Thị Phận, nay đang công
tác giảng dạy tại Đại học Cần Thơ.
Làm sao quên được những người
Thầy tận tâm dạy dổ, dạy hết mình vì học sinh, vì bề dày thành tích của Trường
Hoàng Diệu. Lớp đệ nhất B chúng tôi do Thầy Nguyễn Bình là giáo viên hướng dẫn
(chủ nhiệm) và dạy Toán. Thầy quan tâm đến từng đứa học trò, vừa nghiêm khắc
vừa bao dung, độ lượng nên ai cũng quý mến Thầy. Thầy nhận xét lớp đệ nhất B
chỉ có một nữ sinh duy nhất, nam sinh ở các huyện, ở vùng nông thôn, hầu hết
học trường tư thục đến năm đệ nhất mới về học trường công lập Hoàng Diệu, thầy
hy vọng mỗi em cố gắng tập trung học tập để mỗi em đều thi đổ, lớp đệ nhất B sẽ
có tỷ lệ đổ cao nhất ở các trường học Miền Tây Nam bộ chúng ta và sẽ trở thành
lớp Đệ nhất “Đặc Biệt”.
Bên cạnh đó, có Thầy Lâm Ngọc
Linh dạy Lý Hoá (Lý và Hóa là 1 môn);
Thầy Phan Ngọc Răng là Hiệu Trưởng, dạy môn Vạn vật. Mỗi Thầy đều có phong cách
dạy riêng nhưng đều hấp dẫn chúng tôi bởi tầng tầng kiến thức của quý Thầy.
Thầy Nguyễn Bình, thầy Lam
Ngọc Linh tổ chức họp và khuyên lớp “ Nếu muốn đổ cao các em phải học theo tổ,
theo nhóm, mỗi tuần học 03 buổi về môn toán, môn lý hóa do Thầy Nguyễn Bình và
Thầy Ngọc Linh hướng dẫn (không có thu tiền học thêm), trước đây thi tú tài IIB
( ban toán) môn toán hệ số 5, môn lý hóa hệ số 4, các môn còn lại chỉ hệ số 1
hoặc 2. Do đó học sinh học khá môn Toán,
môn Lý Hóa, làm bài toán, lý hóa đạt khá thì gần đủ điểm đổ tú tài II. Do đó,
các em cố gắng học tổ, học nhóm để phát huy tính tự chủ , phát huy tính tự lực,
tích cực, tự giác để mỗi học sinh nắm
chắc kiến thức đã học…
Đầu năm học, Thầy Nguyễn Bình
tổ chức khảo sát môn toán, môn lý hóa lớp đệ nhất B niên khóa 1969-1970 có 49
học sinh thì chỉ có 41 em học sinh môn toán, môn lý hóa đạt trung bình còn lại
8 em học yếu môn toán, môm lý hóa. Từ đó, Thầy Nguyễn Bình, Thầy Lâm Ngọc Linh
tập trung đi sát 8 học sinh yếu môn toán, môn lý hóa. Sau ba tháng học nhóm,
học tổ đến học kỳ I lớp đã có 46 học sinh đạt trung bình, có 3 học sinh đạt
khá, đến học kỳ II đã có 07 học sinh đạt khá, 42 học sinh đạt trung bình, không
có học sinh yếu kém…
Cũng chính vào thời điểm 1969 – 1970 này,
phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ cũng như phong trào đấu tranh của
học sinh, sinh viên đô thị Miền Nam lên cao. Từ Sài Gòn vọng về những tiếng hát
xuống đường với phong trào “Hát cho dân tôi nghe” khá sôi nổi. “Dậy mà đi, dậy mà đi hởi đồng bào ơi!/ Ai
chiến thắng mà không hề chiến bại./ Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần./ Dậy mà
đi, dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!”hoặc những lời ca khẳng định lòng quyết tâm
vì quê hương, đất nước “ Nếu là chim, tôi
sẽ là loài bồ câu trắng/ Nếu là hoa, xin làm một đoá hướng dương/ Nếu là mây,
tôi sẽ làm một vừng mây ấm/ Là người, tôi sẽ chết cho quê hương” (Tự nguyện-
Trương Quốc Khánh)..
Lớp đệ nhất B (1969 – 1970)
là lớp nồng cốt lãnh đạo phong trào biểu tình, bãi khoá chống “Quân sự hoá học đường”, chống bắt lính của chế độ
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của học sinh Sóc Trăng, Lớp trưởng lớp đệ nhất B
niên khóa 1969-1970 là tổng thư ký của Trường Công Lập Hoàng Diệu, đã liên hệ
với sinh viên Sài gòn tổ chức bãi khóa 3 ngày, đây cũng là phong trào đấu tranh
mạnh nhất của học sinh Sóc Trăng từ năm 1957-1970. Đã hơn 40 năm tôi vẫn nhớ
lời Thầy Nguyễn Hiền Tâm, Thầy Nguyễn Bình, Thầy Lâm Ngọc Linh khuyên bảo: các
em chống bắt lính một cach tích cực nhất là cố gắng học giỏi, thi đỗ Tú Tài II,
ghi danh học Đại học thì khỏi đi lính! Từ đó, các bạn đều có gắng giúp nhau
trong học tập; phát huy tính tự lực, tích cực, tự giác để học tập đạt kết quả
cao.
Nhớ làm sao những tháng ngày
tình cảm Thầy trò lung linh thật đẹp. Thầy Chủ nhiệm Nguyễn Bình, Thầy Lâm Ngọc
Linh, hướng dẫn trực tiếp một cách tận tình, chu đáo và hiệu quả.
Có niềm vui nào hơn khi bước
vào kỳ thi Tú Tài II cuối niên khoá. Biết bao công sức, tâm huyết của Thầy Cô
bỏ ra, biết bao sự nỗ lực cố gắng của mỗi thành viên đã được đền đáp một cách
xứng đáng.
Khoá 1 đổ 36/49 học sinh và
khoá 2 đổ thêm 12 học sinh. Như vậy, lớp
đệ nhất B “đặc biệt” có 48/49 học sinh đổ Tú Tài II (trừ một bạn bị bệnh không
dự thi được).
Đúng là một lớp “đặc biệt”,
bởi không những “đặc biệt” vì có một nữ duy nhất mà “đặc biệt” bởi vì lớp có tỷ
lệ đổ Tú Tài II cao nhất các Tỉnh miền Tây Nam bộ lúc bấy giờ!
Cũng xin nói thêm rằng: Hồi
đó, thời điểm 1963 – 1970, các lớp học sinh miền Tây Nam bộ thi Tú Tài I, Tú
Tài II chỉ đổ từ 30% đến 50%, năm nào cao nhất cũng chỉ đạt 70%.
Nhớ về trường xưa, trong tôi
lại hiện lên hình ảnh những người Thầy nhiệt tình; hết lòng dạy dỗ, khuyên nhủ
học sinh. Thầy Cô chính là người Cha, người Mẹ; là người định hướng cuộc đời
cho mỗi học trò. Công ơn trời biển ấy chẳng khi nào chúng tôi quên được!
Thời gian trôi nhanh quá! Mới
thuở nào cắp sách tới trường, nay lớp học sinh cũ chúng tôi đã đều trên 60
tuổi. Mây trắng thời gian đã đọng lại trên đầu. Có ai đi xa còn nhớ về trường
Hoàng Diệu thân thương? Có ai đi xa còn nhớ lối về Trường cũ để mà nhớ, mà
thương một thời sôi động, tự hào là học trò của ngôi trường có bề dày lịch sử
vẻ vang…
Thật đúng như câu thơ mà ai
đó từng tự hỏi lòng mình :
“Ta như dòng suối tuôn ra biển
Có lúc nào quên trở lại nguồn?”
TÔ HIỆP
(Cựu học sinh Hoàng Diệu)