Sunday, July 20, 2014

ANGKOR KÝ SỰ - KỲ CUỐI ( Trịnh Ngọc Thủy )





Angkor Wat


Là đền nổi tiếng và lớn nhất trong quần thể Angkor: Angkor Wat. Angkor là từ đọc trại từ chữ nokor nghĩa là thành phố (bắt nguồn từ chữ Sanskrit nagara).Tôi rất xúc động khi nhìn thấy đền từ xa. Angkor huyền bí và mầu nhiệm mà bao lâu nay tôi đã tưởng tượng trong đầu và mong sao có dịp được thăm viếng và chiêm ngưỡng nay đã trong tầm mắt và chỉ trong vài phút nữa sẽ được chiêm ngưỡng vẽ đẹp hung vĩ của nó rồi.

Cách đây 156 năm, vào năm 1858 nhà thực vật học và thám hiểm Pháp Henri Mouhot đã khám phá ra Angkor đang chìm đắm trong rừng rậm từ bao thế kỷ. Đền bị các cây cổ thụ mọc phủ kín, rể cây khổng lồ chen vào các khe hở kiến trúc đá qua nhiều thế kỷ đã tàn phá đền. Trước cảnh hoang tàn âm u của các kiến trúc từ một nền văn minh chưa ai biết, chìm sâu trong rừng rậm từ lâu. Mouhot đã xúc động và viết một bài mô tả trong nhật ký, sau này in lại trong sách của ông “Voyages dans les royaumes du Siam du Cambodge et du Laos”. Sách này được xuất bản sau khi ông mất vì bệnh sốt rét năm 1861 trên sông Mekong gần Luang Prabang. Như số phận trước đây của Angkor, mộ ông bị bỏ hoang biến mất trong rừng rậm và chỉ  tình cờ tìm lại được vào năm 1990.

Sau khi Mouhot mất, nhật ký của ông được mang về Bangkok và  trao lại cho vợ  ông. Tạp chí  “Le Tour du Monde”, năm 1863 đã trích từ nhật ký một chương giới thiệu và mô tả khám phá Angkor của ông. Việc nầy đã kích thích óc tò mò, sự khao khát khám phá và tìm hiểu ở nhiều nơi trên thế giới. Nhà thám hiểm Louis Delaporte sau đó đã đến Angkor nghiên cứu, vẽ hoạ đồ các kiến trúc và mang về Paris một số hiện vật (nay trưng bày ở viện bảo tàng Guimet).

Mouhot không phải là người ngoại quốc đầu tiên tìm ra lại được Angkor. Trước ông rất lâu gần 3 thế kỷ là các giáo sĩ người Bồ Đào Nha. Một trong những người đầu tiên đó là Antonio da Magdalena, đến Angkor năm 1586.


Nhưng trước cả các giáo sĩ Bồ Đào Nha là sứ giả Trung quốc Châu Đạt Quan đã có mặt ở Angkor vào thế kỷ 13, lúc Angkor chưa bị bỏ hoang. Ông đã chứng kiến sinh hoạt của một xã hội phong tục tập quán, vua chúa và đền đài. Đó là tư liệu duy nhất vô cùng quí giá về vương quốc Angkor.

Ngày nay Angkor Wat không còn khó khăn đi đến nữa, các khoảng đất rộng trước cửa cầu đá đi vào cổng phía tây của đền Angkor Wat bây giờ là bãi đậu xe và có rất nhiều hàng quán phục vụ khách du lịch đến từ khắp mọi nơi. Từ cửa tây Angkor Wat thẳng ra về hướng tây khoảng vài cây số là phi trường Siem Reap, nằm phía dưới hồ nhân tạo rất lớn gọi là  “Baray Tây” (Western Baray) của quần thể Angkor. Tuy vậy khi đã đến Angkor Wat, du khách cũng sẽ có các ấn tượng không kém ngạc nhiên như những người đi trước đầu tiên khám phá ra Angkor, đi vào một thế giới khác ngoài sức tưởng tượng của họ. tôii tự hỏi: làm sao người xưa có thể tạo dựng những công trình kiến trúc bằng đá hùng vĩ như thế ngay trước mắt mình?

Đường vào đền Angkor Wat là đoạn cầu đá dài băng qua một hào nước bao quanh 4 phía chung quanh Angkor Wat. Đền Angkor Wat hình chữ nhật, chiều dài 1,500m, chiều ngang 1,300m, kể cả hào nước xung quanh rộng 190m. Đây là đền lớn nhất trong quần thể Angkor. Theo các nhà học giả Finot, Coedes, Bosh thì đền được xây dưới thời vua Suryavarman II để làm mộ thờ của vua. Vì thế hướng của đền là về phía tây và đền với các điêu khắc theo truyền thuyết thần Visnu chứ không đặt trọng tâm vào thần Shiva như ở các kiến trúc khác hay cung điện vua.

Angkor Wat thể hiện núi Meru, trung tâm vũ trụ : Angkor được xây dựng trên ba tầng đại diện cho đất, nước và gió mà núi Meru dựa vào và nước ở hào chung quanh đền thể hiện cho đại dương trong vũ trụ. Trong ba tầng của Angkor Wat thì tầng cao nhất là trung tâm đền với tháp cao nhất có 7 vòng tượng trưng cho 7 vòng núi thiêng Meru. 

Một kỳ quan kiến trúc như Angkor Wat được xây bởi một nhà vua có tầm vóc trong lịch sử Khmer. Suryvarman II (1113-1150 AD) là vị vua hùng mạnh có công mở rộng vương quốc Khmer. Ông là một trong hai đại đế trong triều đại Angkor. Vị vua thứ hai là Jayavarman VII, người đã xây dựng Bayon ở Angkor Thom. Ngoài Angkor Wat, Suryvarman II còn xây các đền Thommanon, Chao Say Tevoda, Banteay Samre ở Angkor, Beng Mealea (cách Angkor 60km về hướng đông), Phimai (ở Thái Lan hiện nay).

Dọc hai bên cầu đá đi vào đền xưa kia là các tượng thần và tượng ác quỷ ở mỗi bên ôm thân rắn naga kéo giành giật nhau tạo ra vũ trụ. Trước đây có tất cả 54 tượng thần và 54 tượng ác quỷ ôm thân rắn ở mỗi bên đường, nay chỉ còn lại một vài tượng mà thôi. Theo Mannikka  thì con số 108 của tổng số các tượng là số thiêng liêng của tôn giáo và văn hoá Ấn độ (108 cũng là số lần hiện thân của thần Vishnu, Shiva).

Qua cổng chính ở tường ngoài của đền, du khách bắt đầu vào khuôn viên tầng nhất Angkor Wat. Đây là hành lang với kiến trúc chữ thập nằm chính giửa.Tại đây chúng tôi thấy có nhiều tượng Phật vẫn còn được thờ cúng. Rẻ vào phía trái về hướng bắc đến cửa ra hành lang là nơi mà theo truyền thống thì du khách có thể đứng dựa vào tường, vổ ngực mình sẽ để nghe âm vang và nếu có ước nguyện gì sẽ được toại nguyện. Tôi đứng dựa vào cổng tường, ngước mắt nhìn lên trần và vổ ngực! quả thật có âm vang dội lại. Gần đấy có một kiến trúc gọi là “thư viện”. Toà nhà “thư viện” nằm trong sân ở tầng một, ngoài hành lang gần tường ngoài của Angkor Wat .

Để đến tầng thứ ba của đền Angkor Wat, chúng tôi phải bước đi lên những bực đá rất dốc và rất nguy hiểm nếu không cẩn thận. Sự khó khăn này là ngụ ý của người xây đền cho người ta biết rằng để đi lên được “vương quốc của các thần” không phải dễ. Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giửa. Ở điểm giao tiếp của hai hành lang là trung tâm đền Angkor Wat.

Xưa kia trung tâm đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng thờ Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor Wat, chung quanh tháp là bốn hành lang hình vuông. Ở mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và bốn tháp chung quanh tạo thành toà chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn viên đền.

Muốn cảm nhận được Angkor Wat có sức huyền bí như thế  nào thì du khách  nên đợi đến hoàng hôn. Angkor Wat dưới ánh hoàng hôn, đền với các tháp và đá trở thành vàng đỏ rực ẩn hiện dước bóng cây thốt nốt. Đôi khi lúc hoàng hôn xuống, du khách sẽ thấy cảnh hàng ngàn con dơi bay quanh đền và trên bầu trời Angkor. Sau khi viếng thăm Angkor Wat, không một du khách nào mà không có ấn tượng và bị ảnh hưởng trước kỳ công huyền bí của một nền văn minh đã biến mất. Gần một thế kỷ trước đây, một du khách người Mỹ đã yêu cầu khi bà mất thì hài cốt của bà xin được rải ở cầu đá dẩn vào đền Angkor Wat, năm 1936 ước nguyện của bà đã được toại nguyện.

Ta cũng có thể hiểu được vì sao tài tử Angelica Jolies sau khi đến Angkor đóng phim “Tomb Raiders” đã bị thu hút và trở thành công dân danh dự và sứ giả cho đất nước Cambodia, và cô có một con nuôi là người Khmer.

Angkor Thom



Sau Angkor Wat, chúng tôi đi thăm Angkor Thom kế cạnh Angkor Wat. Đường vào qua cửa Nam của Angkor Thom rất ấn tượng với hai bên là các tượng thần ôm thân con rắn 7 đầu, dài vài trăm thước dọc hai bên cửa vào thành phố xưa Angkor Thom.

Trung tâm của thành phố Angkor Thom là đền Bayon, với bốn cửa theo bốn hướng. Kế Bayon về phía tây bắc là cung điện vua Phimeanakas, từ đó cũng có một trục chạy về phía đông ra một cửa nửa gọi là cửa “chiến thắng”.

Angkor Thom có hai trung tâm thể hiện hai thời kỳ lịch sử xây dựng khác nhau khi hình thành Angkor Thom. Khi Mouhot đến đây thì Angkor Thom nằm trong rừng rú với cây cao, dây leo khắp nơi không thể nào biết là có thành phố, đền, điện cổ trong đó. Rất khó khăn để đi vào đến nơi, tuy nhiên sau đó Mouhot đã ngở ngàng trước các tháp mà trên đó ở bốn hướng là tượng mặt người mĩm cười huyền bí giửa cảnh đổ nát trong rừng thẳm và bây giờ là vị trí của điện gọi là Bayon.

Các điêu khắc ở trên một số bệ đá chung quanh các tháp mô tả các huyền thoại, cảnh chiến trận và  cảnh đời sống xã hội văn hóa của một nền văn minh đã biến mất mà không ai biết rỏ. Phải mất một thời gian nghiên cứu lâu năm sau này qua các các bia ký còn sót lại, người ta mới biết được tượng mặt người huyền bí trên các tháp của Bayon là bodhisattva Avalokitesvara Samanthamukha biểu tượng cho vua Jayavarman VII. Angkor Thom được Jayavarvan VII xây dựng sau Angkor Wat gần 100 năm.

Đặc biệt ở Bayon so với các nơi khác là sự hiện diện trội hẳn của ảnh hưởng Phật giáo Mahayana cũng không lạ gì vì người tạo Bayon và xây dựng nhiều nhất ở Angkor Thom là vua Jayavarman VII, vị vua theo phật giáo Mahayana. Dưới triều vua Jayavarman VII, Angkor đã đến tuyệt đỉnh và được thể hiện trên kiến trúc, nghệ thuật và quyền lực. Sau Jayavarman VII, Angkor bắt đầu suy sụp và cuối cùng điêu tàn lại còn bị bỏ trống sau khi bị quân Xiêm tàn phá.

Từ xưa đến nay Angkor Thom có ấn tượng với du khách đến thăm không kém gì sức mạnh huyền bí của Angkor Wat. Giửa quang cảnh đổ nát và đi quanh những tảng đá lớn nằm ngỗn ngang ở Bayon, nhìn lên khắp nơi mọi hướng lúc nào ta cũng thấy tượng đầu người mĩm cười hiểm bí trên các tháp nhìn ta như muốn cho ta biết là tất cả đều vô thường trên thế giới này. Tại đây có tổng cộng 256 gương mặt đá trên 54 tháp nhìn khắp hướng ở Bayon.

Cấu trúc đền Bayon gồm ba tầng và cả ba tầng đều bị hư hại đổ nát với  gạch đá nằm ngỗn ngang. Năm 1924, Henri Parmentier (nhà khảo cổ Pháp, người thành lập ra viện bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng) đã tìm được một tượng bồ tát Lokesvara ở Bayon. Sau này trong lòng trung tâm Bayon, một tượng Phật lớn cũng được tìm ra. Điều này chứng tỏ Bayon là đền thờ Phật giáo chứ không phải Ấn giáo như người ta nghĩ lúc ban đầu.

Trên một số các bệ đá làm nền chung quanh tháp Bayon ở tầng một là các điêu khắc tuyệt tác. Những bức tranh phù điêu tạc trên đá mô tả rất sống động cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, trận thuỷ chiến giửa quân Khmer, Chàm, Xiêm, cảnh người Hoa buôn bán và các sinh hoạt ở chợ búa. Ta hảy tưởng tượng hình ảnh sống động nầy khi sứ giả Trung Hoa Châu Đạt Quan (Zhou Daguan) của nhà Nguyên Mông cổ có mặt tại Angkor trong năm (1296-1297).

Baphuong, Cung điện hoàng gia, sân voi và tượng 
“vui cùi”



Cạnh Angkor Thom Bayon là đền Baphuong nổi tiếng, xưa kia đền Baphuon xây trên một ngọn đồi rất lớn hùng vĩ chỉ sau Angkor Wat trong quần thể Angkor. Trong 9 năm liền, kiến trúc sư Pascal Rogère của trường Viễn Đông Bác Cổ đã làm việc và lui tới trong khu vực Baphuon. Ông hầu như biết từng phiến đá ở đây. Có khoảng 300,000 tảng đá nằm ngỗn ngang quanh đền và trong rừng chung quanh khu vực đền đã được phân loại, đánh số để tái phục và kiến tạo lại cấu trúc đền Baphuong 
.
Cung điện hoàng gia Phimeanakas, nay hầu như chỉ là bãi đất trống nằm giửa một số tường thành còn sót lại. Trong khu hoàng gia còn hai hồ nước lớn gọi là Srah Srei và Srah Bros nơi xưa kia vua và cung nữ trầm mình tắm. Ngồi trên bậc đá của bờ hồ, xung quanh vắng lặng với tiếng lá reo xa xa làm cho tôi tưởng tượng trước mặt là cảnh bầy cung nữ trầm mình trong nước xung quanh nhà vua. Đâu đây vang vọng trong tai lời ca của ca sĩ Chế Linh với bản nhạc “Hận Đồ bàn”

Rừng hoang vu..... Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù.
Ngàn gió ru... muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
Vạc kêu sương... buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.
Đàn đóm vương.... như bóng ai trong lúc đêm trường về.
Rừng trầm cô tịch, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo.ngàn muôn tiếng ngâm, tháng năm còn vang, âm thầm hòa bài, hận vong quốc ca.
người xưa đâu? mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu. lầu các đâu? nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu.
 

Tại cung điện hoàng gia, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một phiến đá tạc bằng chữ Sanskrit kể về sự nghiệp của vua Jayavarman VII như sau:

 Lúc thiếu thời, khi Jayavarman VII mang quân đi đánh Chiêm Thành (Champa), thì cha mất. Vua Yasovarman II lên ngôi, nhưng bị Tribhuvanaditya chiếm ngôi. Ông trở về đợi lúc có thời cơ để phục hồi ngôi vua. Khi Champa mang binh đánh phá Angkor và tiêu diệt Tribhuvanaditya, ông tự xưng là vua và khởi nghĩa chống lại Champa.

Cuộc chiến với Champa rất là gay go qua nhiều trận đánh và cuối cùng toàn thắng giải phóng đất nước. Sau đó, Jayavarman VII trả thù mang quân đánh Champa, Champa bại trận và trở thành một tỉnh của Khmer. Đây là khúc quanh lớn trong lịch sử của cả Champa và Cambodia. Ở Bayon và Banteay Chmar có các điêu khắc về cảnh thủy chiến với Champa rất sống động. Banteay Chmar khoảng 150 km về phía tây bắc Angkor gần biên giới Thái Lan hiện nay, được Jayavarman VII xây dựng tưởng niệm con ông và bốn tướng lảnh hy sinh khi đánh Champa. Banteay Chmar có kiến trúc tương tự như Bayon với tháp bốn mặt, nằm trên con đường lộ xưa nối liến Angkor với Phimai và cao nguyên Khorat (nay thuộc Thái Lan).

Đi bộ ra khỏi khu cung điện hoàng gia, qua ngôi đền nhỏ thuộc niên đại gần đây với bức tượng Phật mạ vàng cao lớn. Chúng tôi đến khu “sân voi” (Elephant terrace) nơi xưa kia vua cùng quân thần xem cưỡi và đấu voi. Xưa kia ở đây là dinh thự của vua làm bằng gỗ, tuy nhiên qua nhiều thế kỷ và thăng trầm của lịch sử đã không còn. Trên khu này còn sót lại một tượng “vua cùi” và bệ lớn của khán đài bằng đá  tương truyền là tượng nầy là vua Jayavarman VII. Trên các tường, bệ chung quanh sân là những điêu khắc đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật Khmer Angkor: voi diễn hành, cưỡi voi chơi polo... Ở các góc tường bệ là các tượng điêu khắc hình chim thần garuda dùng tay nâng đở sân. Ngồi trên bệ đá tôi hình dung trước mắt mình những đàn voi hùng dũng tiến ra đấu trường.


Phnom Bakheng




Phnom Bakheng là một ngọn đồi nằm giửa Angkor Wat và Angkor Thom. Đây là trung tâm của vương quốc Khmer đầu tiên ở Angkor, gọi là Yasodharapura. Phnom Bakheng là ngọn núi thiêng của Angkor, như núi Meru thiêng liêng trong thần thoại Ấn độ giáo. Trên đỉnh Phnom Bakheng là một đền thờ đã đổ nát. Nơi đây trên mặt đất đá, các nghệ nhân Khmer xưa đã khắc xuống nền đá một bàn chân khổng lồ. Tương truyền rằng bàn chân này là của đức Phật.  Đặc biệt ở đây, mỗi ngày khoảng gần 6 giờ chiều, các du khách đến tụ tập rất đông ở chân đồi Phnom Bakheng để lên đỉnh xem mặt trời lặn trên quần thể Angkor. Đa số đều muốn đi bộ, theo các lối đi gập ghềnh đầy đá và rễ cây.

Trên đỉnh đồi lúc này du khách rất đông, tất cả đều nhìn về hướng tây nơi mặt trời sắp sửa lặn trên mặt nước biển hồ Tonlé Sap ở chân trời. Về phía tây nam là đền Angkor Wat đang tắm dưới ánh hoàng hôn vàng đỏ của mặt trời sắp lặn. Khi Mouhot khám phá ra Angkor, ông có lên đỉnh Phnom Bakheng nhìn xuống quần thể Angkor và đã mô tả như sau:

“Tất cả vùng này giờ đây vắng lặng và cô quạnh, mà trước kia chắc chắn phải là sống động nhộn nhịp và vui vẽ; nay chỉ còn lại tiếng hú của các loài dã thú và các tiếng chim kêu giửa sự im lặng cô đơn mà thôi”.

Mouhot chắc chắn sẽ không tưởng tượng nổi lúc nầy tôi đang đứng ở chổ mà trước đây ông đã đến, và nơi đây bây giờ có hàng trăm du khách từ khắp năm châu đang quay phim, chụp hình và nói chuyện náo nhiệt.

Một sự kiện lý thú về Phnom Bakheng là nó có tác dụng như một cái trống, phản hồi và cộng hưởng âm thanh. Vì ở dưới tháp cao chính của đền có một vùng trủng tạo nên âm thanh vang dội cộng hưởng. Ngoài ra ở đấy cũng có một mộ vuông nằm sâu trong lòng đất, mộ này có duyên cơ từ câu truyện thần thoại “Mười hai cô gái Angkor”.

Câu chuyện kể về một người tiều phu nghèo có 12 người con gái, một trường hợp được coi là kém may mắn. Vì ông không thể nuôi nổi gia đình, ông đã mang con vô rừng bỏ, nhưng không thành công lúc đầu. Lần thứ hai thì ông thành công, nhưng thay vì chết, 12 cô gái được bà hoàng hậu Santhomea của thế giới chằng tinh cứu. Bà Santhomea mang các cô gái về nuôi chúng như con mình. Sau này vì quá cô đơn, các cô đã bỏ trốn. Họ đến vương quốc Angkor, tại đấy vị vua trị vì đã thương các cô và mang về làm vợ. Các cô đã sống trong hạnh phúc cho đến một ngày khi bà hoàng Santhomea tìm được tông tích của các cô. Để trả thù, bà đã mê hoặc vua và làm cho vua đuổi nhốt các cô gái vào một hố sâu trong lòng đất, sau khi đã khoét mắt các cô. Đây là lần thứ ba các cô đã bị bỏ rơi cho chết. Một trong các chị em đã dấu được một con mắt và vẫn còn có thể thấy được. Người con gái một mắt giúp tìm thức ăn cho các chị em sinh sống. Một trong các cô có mang một đứa con trai. Người con trai này lớn lên trả thù cho mẹ và các dì của mình. Anh ta đã giết được bà chằng tinh Santhomea và các chị em được trở về với nhà vua sống hạnh phúc.

Ta Phrom


Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục đi thăm các đền Thommanon, Chao Say Tevoda, Ta Phrom, Neak Pean.. Đền Thommanon nằm gần cửa “Chiến Thắng” của Angkor Thom. Trong thập niên 1960, đền đã được trường Viễn đông Bác cổ trùng tu bằng phương pháp phục hồi dùng vật liệu giống như vật liệu ban đầu (anastylosis). Trung tâm đền nằm giửa hai cổng tháp, một ở đông và một ở tây. Kiến trúc đền Thommanon thuộc loại cổ điển Angkor Wat, tương tự như kiến trúc đền Phimai ở Thái Lan.

Đối diện với đền Thommanon, bên kia đường là đền Chao Say Tevoda có kiến trúc tương tự nhưng bị đổ nát vì chưa được trùng tu bao giờ. Đền không lớn, nhỏ hơn đền Thommanon một chút.

Đền Thommanon và Chao Say Tevoda được vua Suryavarman II xây dựng cùng thời với Angkor Wat. Thommanon thờ thần Vishnu nhưng đền Chao Say Tevoda thờ thần Shiva.


Thường ở trung tâm các tháp có kiến trúc đá tượng trưng dương vật linga biểu hiện của thần Shiva và âm vật Yoni, đặc điểm của văn hóa và tôn giáo Ấn độ.

Ta Phrom là đền lãng mạng nhất ở Angkor, được vua Jayavarman VII xây năm 1186 để tưởng niệm mẹ của nhà vua, Jayarajachudanami và dưới dạng tượng quan âm bồ tát Bát Nhã Ba la mật (Prajnaparamita, tượng trưng cho sự sáng suốt uyên thâm) và còn có tượng thầy của vua, Jayamangalartha. Cả hai tượng được dặt trong đền. Các cây cổ thụ mọc ngay trên đền, với rễ cây to lớn bao phủ các tháp và kiến trúc đền. Đó là hai loại cây, Ficus religiosa và cây bông gạo (kapok). Đền có không khí bị bỏ hoang trong rừng. Các tảng đá lớn đỗ nằm lỗn ngỗn khắp mọi nơi từ các tháp, kiến trúc bị sụp đổ do các cây rừng tàn phá từ bao thế kỷ.

Viếng đền Ta Phrom mới cảm nhận được cảm tưởng của những người đầu tiên tìm lại được Angkor, khi họ chứng kiến được Angkor trong trạng thái bỏ hoang trong rừng rú. Chính vì đặc điểm này mà rất nhiều du khách đến thăm đền. Trong hầu hết lộ trình của các chuyến thăm quan du lịch quần thể Angkor, cũng như Angkor Wat, Ta Phrom là một địa điểm phải được ghé thăm.

Neak Pean




Neak Pean là một đền nhỏ, trước kia là nằm giửa một hồ nhân tạo lớn gọi là Jayatataka. Đây là hồ nước nhân tạo, xưa lấy từ sông Siem Reap mà người xưa ở Angkor dùng để canh tác và nay đã hoàn toàn khô không còn nữa.

Ở giửa hồ hình vuông là một đảo tròn nhỏ, có một tháp chung quanh là tượng rắn thần naga. Châu Đạt Quan có viết rằng hồ nước có nhiều hoa sen và tháp có nóc bằng vàng. Nay thì tháp được trang trí bằng những điêu khắc hình ảnh đức Phật và bồ tát Bodhisattva Avalokiteshvara (tượng trưng cho từ bi). Một tượng con ngựa tượng trưng cho bồ tát, đó là ngựa Balala. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì đức bồ tát đã hóa thân thành con ngựa Balala để cứu một nhóm thương nhân bị đắm tàu.

Một đặc điểm của Neak Pean là có bốn buồng nhỏ chung quanh đảo. Mỗi buồng có một vòi phun nước, một buồng giống hình con voi, một giống sư tử, một giống con ngựa và một giống hình người. Từ những vòi này là nước trong veo chảy ra.

Preah Khan


Giống như Ta Phrom, đền Preah Khan vẫn còn như trong trạng thái hoang dã với các cây cổ thụ mọc trên kiến trúc đền. Chung quanh đền là rừng, nên đền có một không khí rất cổ kính tôn nghiêm và hoang dã. Một nơi thơ mộng, rất lý tưởng để suy tư và trầm ngâm trong yên lặng.

Preah Khan, Ta Som và Neak Preah là một nhóm đền gần Jayatataka. Cũng như Bayon ở Angkor Thom, cả ba đền là kiến trúc Phật giáo được vua Jayavarman VII xây dựng. Preak Khan và Ta Som là đền được xây để tưởng niệm cha của vua Jayavarman VII. 

Preah Khan rất lớn khoảng 57 hectares, được bao bọc bởi bốn lớp tường thành và một hào nước bên ngoài. Preah Khan không phải chỉ là một đền thờ mà thật ra là một thành phố nhỏ. Những ký tự tìm được ở Preah Khan có nói đến một cộng đồng hơn 90 ngàn dân sống trong vòng đai đền. Chổ ở của các thầy tu, học trò và các người chăm sóc đền chắc là ở khoảng giửa bức tường bên ngoài và bức tường thành thứ hai.

Từ chổ đậu xe ở cổng hướng đông, chúng tôi đi bộ vào đền Preah Khan. Đường đi vào Preah Khan hai bên là hàng dài các tượng đèn đá, sau đó là qua một cầu đá giống như ở Angkor Thom với hai bên là các thần và quỷ ôm con rắn chín đầu. Điều này cho thấy Preah Khan trước đây là chổ ở của hoàng gia, có thể nơi đây Jayavarman VII làm cung điện trong khi Angkor Thom đang được xây dựng.

Qua cầu đá là đến cửa thành vòng ngoài, cửa thành được bảo vệ bởi các tượng chim thần Garuda to lớn. Trên cửa là tháp (gopura) rất hùng vĩ. Đi qua hai bức tường thành nữa là đến hệ thống kiến trúc đền với các điện, hành lang, phòng và đền thờ. Trong điện được gọi là  “Điện người múa” vì trên cửa vào có các điêu khắc vũ nữ apsara rất đẹp. Giửa trung tâm Preah Khan có một tháp hình chuông (stupa) cho thấy đền Preah Khan ban đầu được xây là đền phật giáo.

Ở Preah Khan có một bệ đá khắc chữ, liệt kê các công trình kiến trúc được vua Jayavarman VII xây dựng trong đó có 23 tượng đá gọi là Jayabudha mahanatha. Tên tượng cho phép ta đoán là các tượng này tượng trưng cho nhà vua. Bia đá khắc ở Preah Khan cũng có nói đến 121 nhà nghĩ mà nhà vua xây dọc đường trên vương quốc.


Preah Khan




Trên đường đi Banteay Srei, chúng tôi ngang khu phố dọc bờ sông SiemReap nơi có nhiều dinh thự và nhà lớn là chổ cư ngụ của tỉnh trưởng Siem Reap và các quan chức quan trọng. Đường đi đến Banteay Srei rất tốt, được cải tiến rất nhiều.

Đền Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ thuật tôn giáo Balamon Ấn độ.  Đền gồm ba lớp, qua cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước (nay không còn) là cổng vào vòng giửa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà kiến trúc gọi là “thư viện”. Trên mi cửa (lintel) ở cửa hành lang điện sảnh là những điêu khắc rất tuyệt tác. Trên sân nhỏ giửa đền ở vòng trong có ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía nam thờ thần Shiva.

Trên đường trở về Siem Reap, chúng tôi ghé qua vài ngôi đền khác trong quần thể Angkor mà các ngày trước chúng tôi chưa có dịp viếng thăm được. Cụ thể là các đền Mebon Đông, Ta Som và Ta Keo.

Mebon Đông (East Mebon)


Mebon Đông xưa kia nằm trên một hòn đảo nhỏ giửa một hồ đập nước lớn hình chữ nhật, gọi là “Đông Baray”. Châu Đạt Quan gọi hồ này là Đông Hồ. Đền Mebon Đông có tất cả các đặc tính của một đền núi, tượng trưng cho núi thiêng Meru. Muốn đến được đền phải đi bằng thuyền, lên nhiều bậc thang đá đến sân đền. Hồ đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Trên sân đền là năm tháp gồm bốn tháp ở  bốn góc chung quanh một tháp lớn ở giửa. Đền được vua Rajendravarman (944-968) xây dựng. Các ký tự tìm được gần đền và trên tượng đá tại đền (được xác định là năm 952) mô tả vị trí các điện thờ linh phù (linga) Sri Rajendresvara, các thần, nhất là Shiva và Parvati, giống như cha và mẹ của vua Rajendravarman. Đền Mebon Đông thuộc vào nhóm đền thờ cha mẹ của vua.

Xuống xe gần đền, chúng tôi nhận thấy đây là địa điểm khá xa trong quần thể Angkor nên hầu như không có du khách. Chúng tôi đi lên đền qua nhiều bậc thang đá, qua tượng hai sư tử đá là đến sân đền. Từ sân đền trên cao nhìn xuống ta có thể thấy một số đền khác ở phía xa và khoảng đất bằng phẳng chung quanh đền của hồ cạn “Đông Baray”. Ở bốn góc sân đền là bốn tượng voi đá lớn và rất đẹp. Nhưng cảnh hoang vắng trong một đền rộng lớn và yên lặng! nhìn được bốn phía từ sân trên đỉnh đền, như  có gì huyền bí trang nghiêm làm chúng tôi như bị thôi miên và đi khắp nơi trong đền. Tôi liên tưởng đến cách đây năm sáu thế kỷ trước, nơi đây là chổ người ở quanh vùng đến thờ cúng náo nhiệt nay hoang tàng và chỉ để lại di tích của một nền văn minh rực rỡ đã mất. 

Đền Mebon Đông không như các đền khác trong quần thể Angkor như Angkor Wat, Banteay Srei hay Angkor Thom, nhưng là một đền uy nghi vì tầm vóc cao lớn ở giửa đất bằng chung quanh và có nghệ thuật trang trí qua các linh phù điêu khắc rất sống động. Xưa kia đền ở giửa hồ, từ xa có thể thấy như ngọn núi thiêng trấn ngự bao trùm chung quanh vùng và với vai trò quan trọng là trung tâm tôn giáo và tâm linh của người xưa.

Ta Som



Ta Som là một đền nhỏ gần Neak Pean và Preah Khan, về phía đông của hồ Jayatataka và được bảo vệ bởi một hào nước nay đã cạn. Vòng trong của đền chỉ có kích thước 30mx20m.

Giống như ở Bayon, trên tháp (gopura) ở cửa đông và tây là các tượng lớn điêu khắc hình mặt người ở bốn hướng. Trong các hành lang ở đền là các điêu khắc vũ nữ apsara và các thần. Ta Som là đền Phật giáo được xây bởi vua Jayavarman VII vào thế kỷ 12 như ở Preah Khan, đền xây để tưởng niệm vua cha.

Tạm biệt Angkor



Sau ba ngày viếng thăm quần thể Angkor, tôi đã học hỏi được rất nhiều. Trên đường ra phi trường Siem Reap  để trở lại Việt Nam vào ngày 30 tết lòng tôi rất luyến tiếc, vì lúc nào hình ảnh của Angkor đều lẩn quẩn trong tôi với nét huyền bí. Trong đầu tôi, bao câu nhiêu câu hỏi hiện ra “ làm sao và làm sao người  xưa có thể  tạo nên một kỳ quan hùng vĩ đầy huyền bí đến như thế?”. Chưa rời khỏi nhưng tôi đã tự nhủ với lòng hẹn ngày trở lại Angkor trong tương lai, vì thế năm 2011 tôi đã cùng con gái trở lại Angkor, vẫn cảnh tượng huyền bí hùng vĩ trước mắt tôi như ngày nào không thay đổi. Angkor vẫn sừng sửng trơ gan cùng tuế nguyệt!



Trịnh Ngọc Thủy  và các bạn nhóm du lịch