Monday, May 26, 2014

BỆNH CAO ÁP HUYẾT ( Chuyển Bởi VK )




BỆNH CAO ÁP HUYẾT 
(Hypertension)
Lâu rồi bạn chưa đi bác sĩ, bạn nên đi, nhờ bác sĩ đo hộ áp huyết.
Bệnh cao áp huyết xảy ra rất nhiều. Riêng tại Mỹ (nay trên 300 triệu cư dân), khoảng 58- 65 triệu người mang bệnh cao áp huyết, như vậy, tính ra khoảng 5 người ở Mỹ, có một vị cao áp huyết. ở Việt Nam 16% dân số bệnh cao huếyt áp.
Cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) rất nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều người không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một “căn bệnh thầm lặng”.


Cao áp huyết là gì?
Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đẩy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.
Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90. Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): sức ép của máu vào lòng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim. Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): áp suất trong lòng động mạch khi tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp. Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong lòng động mạch, và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong lòng động mạch.
Theo sự phân loại mới, áp suất tâm thu systolic bình thường dưới 120 và áp suất tâm trương diastolic dưới 80. Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất vào 3-6 dịp thăm khám, cách nhau vài tuần đến vài tháng);
cao độ 1: áp suất tâm thu systolic: 140 đến 159, áp suất tâm trương diastolic: 90 đến 99;
cao độ 2: áp suất tâm thu systolic: từ 160 trở lên, áp suất  tâm trương diastolic: từ 100 trở lên.
Những người có áp suất tâm thu systolic trong khoảng từ 120 đến 139, hoặc áp suất  tâm trương diastolic từ 80 đến 89, nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension), sau dễ tiến đến cao áp huyết.
Như vậy, để tóm tắt:
Áp huyết bình thường:
áp suất systolic dưới 120 và áp suất diastolicdưới 80
- Tiền cao áp huyết:
áp suất systolic 120-139 hay áp suất diastolic80-89
- Cao áp huyết:
Độ 1: áp suất systolic 140-159 hay áp suất diastolic 90-99
Độ 2: áp suất systolic từ 160 trở lên hay áp suất diastolic từ 100 trở lên.


Nguyên nhân bệnh Cao áp huyết
Đến 90% các trường hợp cao áp huyết, nguyên nhân khiến bệnh xuất hiện chưa được biết rõ, hoặc nói cách khác, với trình độ y khoa hiện tại, người ta chưa tìm ra được nguyên nhân gây bệnh.
Có một số yếu tố ảnh hưởng, khiến chúng ta dễ mang bệnh cao áp huyết:
- Tuổi tác:
càng cao tuổi, nhất là khi trên 60, chúng ta càng dễ cao áp huyết.
- Yếu tố gia đình:
cao áp huyết có tính di truyền. Có cha mẹ, anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ, bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này.
- Giòng giống:
người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng, và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
- Béo mập:
khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
- Cao mỡ trong máu:
người cao mỡ trong máu dễ bị cao áp huyết hơn người không cao mỡ trong máu.
- Rượu:
các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết, đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
- Đời sống thiếu vận động:
đời sống thiếu vận động có thể đưa đến cao áp huyết. Ngược lại, thường xuyên vận động giúp ngừa bệnh cao áp huyết.
- Ăn mặn:
ăn mặn, dùng thức ăn chứa nhiều muối cũng là một yếu tố có thể làm chúng ta dễ cao áp huyết. Cơ thể một số người chúng ta có khuynh hướng nhạy ứng với muối khiến áp huyết dần tăng cao.
Một số nhỏ các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá, bệnh của tuyến nội tiết, bệnh thận, chứng ngưng thở trong lúc ngủ (sleep apnea), dùng thuốc ngừa thai, dùng các thuốc giảm đau loại chống viêm không có chất steroid (nonsteroidal antiinflammatory drugs như Celebrex, Ibuprofen, Naproxen, ...) lâu ngày, v.v..


Biến chứng của cao áp huyết
Bệnh cao áp huyết nguy hiểm, vì không chữa trị, sẽ làm hại cơ thể nhiều cách. Áp huyết cao hơn bình thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn. Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi, và yếu dần. Cho đến một lúc, con tim suy yếu sẽ không còn bơm đủ máu, không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể, nhất là khi người bệnh vận động, gây các triệu chứng mau mệt, choáng váng, khó thở, ..., nhất là khi vận động.
Áp suất cao trong các mạch máu có thể làm tổn thương thành của các mạch máu. Những chỗ tổn thương trong lòng các mạch máu dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu (platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào. Cơ chế dây chuyền này lại càng làm lòng các mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại. Thử tưởng tượng nếu các mạch máu dẫn máu đến nuôi tim càng lúc càng tổn thương và nhỏ hẹp lại, dĩ nhiên đến một ngày nào đó, sẽ không còn mang đủ máu đến để nuôi tim. Nếu một phần tim thiếu máu nuôi trầm trọng, phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết cơ tim cấp tính (heart attack).
Tương tự, cao áp huyết làm tổn thương các mạch máu nuôi óc, nuôi thận, nuôi mắt, ... gây các biến chứng tai biến mạch máu não (stroke), suy thận, giảm thị giác, ... So với người thường, người cao áp huyết, nếu không chữa, dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch vành tim (coronary artery disease) khiến tim đâm thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 l ần, dễ suy tim gấp 6 l ần, và dễ bị tai biến mạch máu não gấp 7 l ần.
Bài kỳ sau, chúng ta sẽ tìm hiểu cách định ra bệnh cao áp huyết.
Kể bệnh
Nếu chúng ta mang bệnh cao áp huyết, khi đi khám bệnh, chúng ta nên kể bệnh như thế nào? Chúng ta cũng nhớ cho bác sĩ biết chúng ta có hút thuốc lá, có uống rượu, hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào không, kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ, vì nhiều thuốc, như thuốc ngừa thai, thuốc chữa nghẹt mũi (Actifed, Dimetapp, Sudafed, ...) có thể làm áp huyết tăng cao.
Định bệnh
Cao áp huyết là căn bệnh thầm lặng, đa số người cao áp huyết không cảm thấy gì cả. Một số vị có những triệu chứng mơ hồ như hồi hộp (cảm thấy tim đập mạnh), nhức đầu, chóng mặt, ... Ngược lại, nhiều người hay có những triệu chứng này lại không hề bị cao áp huyết. Bệnh thường định ra một cách tình cờ khi chúng ta đi khám bác sĩ vì lý do gì khác.
Tốt nhất, cứ 1-2 năm, dù khỏe mạnh, chẳng có triệu chứng gì, chúng ta cũng nên đi khám bác sĩ và nhờ đo áp huyết: mỗi 2 năm nếu áp huyết ta hoàn toàn bình thường, dưới 120/80, 1 năm nếu áp huyết đang trong khoảng mấp mé (prehypertension, áp suất systolic từ 120 đến 139, hoặc áp huyết diastolic từ 80 đến 89).
Với bác sĩ, định bệnh cao áp huyết thường không khó gì. Một người xem là có cao áp huyết, nếu áp huyết cao từ 140/90 trở lên, đo ít nhất 2 l ần trong buổi thăm khám và ít nhất vào 3 dịp thăm khám khác nhau, cách nhau vài tuần đến vài tháng (người bệnh không nên dùng cà-phê, hút thuốc lá trước đó, nên ngồi nghỉ một lát, rồi áp huyết được đo ở tư thế ngồi).
Tại sao phải đo ít nhất 2 lần (rồi lấy con số trung bình) trong mỗi buổi thăm khám và vào ít nhất 3 dịp thăm khám khác nhau, cách nhau vài tuần đến vài tháng. Vì áp huyết của chúng ta có thể giao động, thay đổi lúc này lúc khác tùy khi chúng ta khỏe mạnh hay đau yếu, đang lo lắng hay không, nhất là khi chúng ta đi khám bác sĩ lần đầu, còn lạ với bác sĩ, lạ với văn phòng, áp huyết có thể tăng cao chút. Những lần thăm khám sau, khi chúng ta thoải mái hơn khi gặp lại bác sĩ, áp huyết có thể xuống lại bình thường. Nhiều vị bị gán tội “cao áp huyết” khá oan uổng ngay từ buổi thăm khám đầu, và cho uống thuốc quá sớm. Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên, cần chữa trị sớm, còn trong buổi thăm khám đầu, nếu áp huyết chỉ lên cao 140/90 hay trên một chút, bác sĩ ghi vào hồ sơ định bệnh “áp huyết lên cao” (elevated blood pressure), và đo lại áp huyết người bệnh ít ra thêm 2 l ần sau nữa (vài tuần, vài tháng sau), không nên dán ngay cho người bệnh nhãn hiệu “cao áp huyết” (hypertension).
Cao áp huyết là bệnh quan trọng, có thể khiến người bệnh và gia đình lo lắng, rồi tiền thuốc, tiền thăm khám bác sĩ thường xuyên tốn kém, và nếu người bệnh mua bảo hiểm nhân thọ chẳng hạn, có thể phải đóng tiền bảo hiểm hàng tháng cao hơn. Đúng sách vở, mới trong 1, 2 l ần thăm khám đầu, nếu áp huyết chỉ lên đến 140/90 hay hơn chút, khám không thấy gì lạ, ghi trong hồ sơ, chúng ta dùng định bệnh “áp huyết lên cao”, và chưa vội nói người bệnh bị “cao áp huyết”, chưa vội dùng thuốc.
Sau khi xác định một người có cao áp huyết (đã đo áp huyết ít nhất 2 l ần trong mỗi buổi thăm khám, vào ít nhất 3 dịp khác nhau, và thấy lúc nào cũng cao cả), để tìm xem các cơ quan bên trong cơ thể đã tổn thương do cao áp huyết hay chưa, để từ đó, sẽ hoạch định đường hướng trị liệu, bác sĩ sẽ khám kỹ mắt, tim, các mạch máu.
Đồng thời, bác sĩ cho thử máu, thử nước tiểu, làm tâm điện đồ, và chụp phim ngực (chest X-ray: chúng ta hay quen miệng gọi phim phổi). Những thử nghiệm và phim ngực này giúp bác sĩ tìm hiểu thêm được người bệnh có tiểu đường, có cao cholesterol trong máu hay không, tim, thận đã tổn thương vì cao áp huyết hay chưa.
Những yếu tố như người bệnh có hút thuốc lá, có uống rượu, hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào, kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ cũng cần được biết, vì nhiều thuốc, như thuốc ngừa thai, thuốc chữa nghẹt mũi có thể làm áp huyết tăng cao.
Đây là những yếu tố quan trọng cần nắm vững trước khi bác sĩ quyết định trị liệu bằng phương cách nào.
Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận, để giảm thiểu những biến chứng, giúp ta sống lâu hơn và vui hơn. Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh, và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác.
Nói chung, với người dưới 60 tuổi, mục tiêu chữa trị là cần đưa áp huyết xuống dưới 140/90; người 60-79 tuổi, đưa áp huyết xuống dưới 140/90 được là lý tưởng, nhưng nếu khó đạt mục tiêu này (phải dùng nhiều thuốc và các thuốc gây tác dụng phụ khó chịu; thuốc đắt tiền quá, ...), chúng ta giữ áp huyết dưới 150/90; người 80 tuổi trở lên, chúng ta giữ áp huyết dưới 150/90.
Chữa bệnh cao áp huyết có hai cách: cách chưa cần dùng đến thuốc (nonpharmacologic therapy) và cách chữa bằng thuốc (pharmacologic therapy).


Chữa chưa cần dùng thuốc
Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên (cao áp huyết độ 2), cần trị sớm, những trường hợp cao áp huyết nhẹ, chưa làm hư hoại cơ quan nào trong cơ thể, chúng ta có thể chữa bằng các phương cách chưa dùng đến thuốc trong vài tháng.
Các phương cách chữa trị chưa dùng đến thuốc: xuống cân nếu béo mập, ăn một thực phẩm ít mặn (không chấm nước mắm, xì dầu, không rắc muối) và ít chất béo, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động (ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày mỗi tuần).
Có một sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người. Nếu người cao áp huyết có sức nặng trên sức nặng lý tưởng, bác sĩ khuyên người bệnh tìm cách xuống cân bằng ăn kiêng và vận động. Rất nhiều trường hợp cao áp huyết, khi người bệnh béo mập xuống cân, áp huyết dần xuống dưới 140/90.


Chữa với thuốc
Chữa vài tháng với những phương cách chưa dùng đến thuốc như trên, nếu áp huyết vẫn không xuống dưới 140/90 như mong muốn, chúng ta cần dùng đến thuốc uống để chữa bệnh.
Về mặt chữa bằng thuốc, có rất nhiều điều bác sĩ cần suy tính trước khi đặt bút biên toa. (Bây giờ chính phủ không muốn bác sĩ biên toa tay nữa, mà gõ computer, chuyển thẳng toa điện tử đến computer của nhà thuốc, để tránh những sai lầm do chữ viết của bác sĩ khó đọc.) Ta cố đưa áp huyết xuống dưới 140/90 (ở người 80 tuổi trở lên, dưới 150/90), với một thuốc vừa tiền, không gây tác dụng phụ (side effects), không ảnh hưởng đến các bệnh khác chúng ta đang mang, ngày dùng chỉ một lần cho tiện.
Thuốc chữa cao áp huyết ở Mỹ có nhiều loại: Diuretics, ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers, Calcium channel blockers, Beta blockers,Alpha blockers, Direct vasodilators, Centrally acting agents, v.v., tác dụng theo những cơ chế khác nhau,giá cả cũng rất khác biệt (những thuốc mới ra sau này rất đắt, Medi-Cal, bảo hiểm thường không cho). Thuốc nào cũng có mặt lợi và bất lợi, những tác dụng phụ của nó.
Nhiều thuốc cao áp huyết có tác dụng chữa được cả bệnh khác nữa, chẳng hạn các thuốc Atenolol, Propanolol, Timolol ngừa được các cơn nhức đầu một bên migraine, hai thuốc Hytrin, Cardura làm giảm các triệu chứng của bệnh to nhiếp hộ tuyến, khéo dùng thuốc, ta có thể một ná bắn hai chim, dùng một thuốc chữa cả hai bệnh. Rồi có thuốc như các thuốc trong hai nhóm ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers tốt cho thận khi chúng ta bị tiểu đường, nên nếu đang có tiểu đường, nay thêm bệnh cao áp huyết, bác sĩ hay thử các thuốc này để chữa cao áp huyết cho chúng ta trước.
Thường bác sĩ chữa bằng một thuốc, nhưng nếu một thuốc không kiểm soát được áp huyết, bác sĩ sẽ dùng đến thuốc thứ hai, thứ ba. Hiện nay có nhiều viên thuốc phối hợp, trong chứa hai hay ba chất thuốc, rất tiện lợi khi chúng ta phải dùng đến hai hay ba thuốc để chữa bệnh.
Chúng ta nên uống thuốc đều như lời dặn dò của bác sĩ, không nên tự thay đổi lượng thuốc hoặc ngưng thuốc khi thấy áp huyết đã xuống lại bình thường, và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn với bác sĩ. Chúng ta vẫn nên tiếp tục các phương cách chữa không dùng thuốc kể trên (xuống cân nếu béo mập, ăn một thực phẩm ít mặn, ít chất béo, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động). Cao áp huyết là bệnh kinh niên, suốt đời ta cần chữa kỹ.
Sự chữa trị nào trong y khoa cũng là tính toán, dò dẫm, chúng ta nên để bác sĩ có dịp xem chúng ta vài lần. Dùng một thuốc cao áp huyết không hợp, gây tác dụng phụ khó chịu, chúng ta nên trở lại cho bác sĩ biết, nhờ bác sĩ điều chỉnh sự chữa trị, bớt thuốc hoặc đổi sang một thuốc khác. Chúng ta chớ vội nghe rỉ tai: “Thuốc tây ‘nóng’ lắm, chả nên dùng” (như thế thì... tội cho thuốc tây lắm, một thuốc rủi làm chúng ta khó chịu, hàng trăm thuốc khác chịu hàm oan), rồi mất tiền vào những chữa trị chẳng có sách vở nào nói đến, cho đến một sáng đẹp trời, chúng ta mở mắt thức dậy, thấy một bên người liệt vì tai biến mạch máu não. Muộn mất rồi!
Cao áp huyết, “căn bệnh thầm lặng”, lặng lẽ làm tổn thương các cơ quan của cơ thể và rút ngắn tuổi thọ chúng ta, có khi đưa đến “heart attack” (chết cơ tim cấp tính) gây tử vong bất ngờ. Sự chữa trị bệnh cao áp huyết cần rất nhiều tính toán và thường xuyên theo dõi bởi bác sĩ. Chúng ta chớ nên tự chữa lấy ở nhà với thuốc của người thân quen cho. (Ngược lại, vị nào đang dùng thuốc cao áp huyết cũng không nên chia thuốc cho người khác, nhưng khuyên họ đi khám bác sĩ chữa trị đàng hoàng. Lòng tốt của ta dùng không đúng chỗ có thể hại cho người.)