Chắc
chắn thơ ca bằng tiếng Việt (bất thành văn) đã xuất
hiện trên đất nước ta từ rất sớm, có
thể trước thời đại Hùng Vương cả một
vài nghìn năm. Kết quả khảo cổ cho biết chữ
Việt cổ (có hình tựa như con nòng nọc) ghi cách
đọc tiếng Việt đã xuất hiện từ trước thời Bắc
thuộc rồi sau đó bị chữ Hán lấn át và tiêu diệt. Người
Việt chỉ còn một cách duy nhất là dùng hình thức truyền
miệng để lưu giữ nền thơ ca dân tộc (ca dao, tục
ngữ, dân ca…) cũng như các tri thức khác.
Sau
khi thoát khỏi ách Bắc thuộc (từ năm 938), do yêu
cầu bức xúc của lịch sử dân tộc thời đại
tự chủ, trong khoảng một vài trăm năm, bên cạnh việc
tiếp tục sử dụng chữ Hán, các trí thức An Nam đã cố
công tìm cách sáng chế ra chữ Nôm (dựa vào chữ Hán và
cải biến thêm để đọc âm Việt). Tương truyền Hàn Thuyên
(thế kỉ XIII, đời Trần) là người đầu tiên chế định
luật thơ nôm, đồng thời làm bài Văn tế cá sấu
bằng chữ nôm. Tiếp sau đó, những người khác như Nguyễn
Sĩ Cố, Chu Văn An, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Biểu … đều
có những sáng tác thơ nôm. Sự xuất hiện chữ nôm và
thơ nôm là một hiện tượng mang tính cách mạng của nền
văn hoá dân tộc.
Đến
thế kỉ XV, chữ nôm đã tương đối hoàn thiện và thơ
nôm đạt tới đỉnh cao mới với sự xuất hiện của thiên
tài thơ nôm Nguyễn Trãi. Sự kì diệu của thơ nôm đã
gây hứng thú lớn lao cho tất cả các thi nhân sau Nguyễn
Trãi. Ở nửa sau thế kỉ XV, trong bối cảnh cực kì thuận
lợi của một thời kì thực sự thái bình thịnh trị,
thơ nôm được cả triều đình nhà Hậu Lê, đứng đầu
là vị minh quân Lê Thánh Tông, đặc biệt chú trọng. Thơ
nôm lần đầu tiên được nâng lên tầm vóc, địa vị
quốc thi. Năm 1495 Hội Tao
Đàn ra đời do đích thân Lê Thánh Tông làm nguyên súy,
gồm 28 “ngôi sao thơ” (nhị thập bát tú) như: Thân Nhân
Trung, Đỗ Nhuận, Ngô Luân, Ngô Hoán, Nguyễn Xung Xác…
Tác
phẩm trứ danh của Hội Tao
Đàn là tuyển tập thơ khá qui mô và đồ sộ Hồng
Đức quốc âm thi tập.
Lê
Thánh Tông là mẫu ông vua hoàn thiện nhất trong
lịch sử Việt Nam. Ông và triều đại của
ông đã thoả mãn được điều mà Nguyễn Trãi
khao khát một đời nhưng không có diễm phúc được chứng
kiến: “Ước một tôi hiền, chúa thánh minh”. Ông
là linh hồn của triều đại phong kiến Việt Nam cực thịnh.
Triều đại Lê Thánh Tông gợi lại thời Nghiêu – Thuấn
của Trung Hoa thời cổ, từng được giới nho sĩ thời phong
kiến coi là điển phạm của tất cả các thời đại.
Là
vị vua sáng và vô cùng hiển hách, Lê Thánh
Tông đồng thời là nhà thơ nhà văn Hán
– Nôm đích thực. Thơ nôm của ông cho
thấy hình ảnh của một ông vua hiền minh hoà quyện
tuyệt diệu với hình ảnh một nhà thơ. Xưa nay rất hiếm
có ông vua nào viết được những câu thơ đằm thắm lạ
thường như thế này:
Thấy dân rét mướt nghĩ
mà thương,
Vậy phải lên ngôi gỡ
mối giường.
Tay ngọc lần
đưa thoi nhật nguyệt,
Gót vàng dận dạn máy
âm dương.
Thơ
Lê Thánh Tông là thơ “tái đạo”
(chở đạo). Đạo là quy luật tự nhiên của
càn khôn và xã hội. Ở loài người, đạo
hàm nghĩa đạo đức mà gốc của đức là chữ
nhân. Thơ ông tràn ngập nhân đức và do đó tràn ngập
vẻ đẹp. Chính lòng nhân đức đã cho ông con mắt nhìn
thế gian khác nhiều so với những nhà thơ khác trong Hội
Tao Đàn. Vận dụng triết lí vạn vật nhất thể
và nghệ thuật khẩu khí, ông cố tình xóa nhoà ranh
giới giữa cao và thấp, giữa sang và hèn nhằm mục đích
nâng đỡ, an ủi, khích lệ, làm nở nụ cười trên môi
những người mang số phận hẩm hiu:
Góp giang sơn xách một quai,
Lượng bằng sông bể
chẳng từ ai!
Vườn
đào ngõ mận từng len lỏi,
Gác tía lầu son mặc nghỉ
ngơi…
Bác mẹ
sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một
mình ngồi.
Chép miệng nuốt ba con kiến
gió,
Nghiến răng chuyển
động bốn phương trời.
Những
bài thơ viết về những số phận đáng
thương trong đời đủ cho thấy ông là một nhà
thơ nhân đạo chủ nghĩa đích thực không
khác gì Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du sau này:
Thờ
chúa thờ chồng hết tấc thương,
Một mình lọn
đạo việc cương thuờng.
Non thiêng dễ
hoá hồn Tinh Vệ,
Nước biếc khôn nhìn mặt
Phạm vương.
Nghi ngút
đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như
miếu vợ chàng Trương?
Bóng
đèn dầu nhẫn, đừng nghe trẻ,
Cung nước
chi cho lụy tới nàng?…
Qua
đây mới biết nguồn cơn
ấy,
Khá
trách chàng Trương khéo phũ
phàng!
Ở
Lê Thánh Tông, chữ nhân gắn liền với chữ trí.
Là vị vua sáng, ông hiểu hơn ai hết cái nguyên lí đã
được xướng ra ở triều đại nhà Lê: Hiền tài
– quốc gia chi nguyên khí (bậc hiền tài là tố chất
căn bản của quốc gia). Chính vì thế, ít có ông vua nào
sánh nổi với ông về tinh thần chiêu hiền
đãi sĩ. Sự trọng thị, yêu quí của ông với những
hiền tài quốc gia được thể hiện sâu nặng trong những
bài thơ khóc điếu các đại thần khi họ qua đời:
Dẹp yên bốn cõi mới buông
tay,
Lồ
lộ Thai tinh (sao lớn) một
đoá mây.
… Thương
ít tiếc nhiều khôn xiết chế,
Miếu
đường hầu lấy cột nào thay?
Khí
thiêng đã lại thu sơn nhạc (cõi trời),
Danh lạ
còn truyền để quốc gia.
Khoát ngón tay than tài cái
thế,
Lấy ai làm trạng nước Nam
ta?
(Điếu trạng nguyên Lương Thế
vinh)
Với
khối óc vô cùng mẫn tuệ (tương truyền
ông là một vị tiên đồng giáng xuống làm
vua nước Nam), Lê Thánh Tông đã nhận định, bình
phẩm một cách xác đáng theo quan điểm độc lập của
ông về các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa
như Hán Cao Tổ, Hạng Vũ, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín,
Tô Vũ… Ví dụ ông thừa biết Hán Cao Tổ chỉ là một
kẻ vô học, cho nên với hành động qua nước Lỗ viếng
Khổng Tử của ông ta, Lê Thánh Tông đã hạ một câu:
Qua Lỗ
vì chưng chút đãi buôi!
Cũng
nhờ khối óc sáng suốt phi thường mà Lê
Thánh Tông đã nhận ra tất cả những sai quấy, vô
lí, bất cập của các triều vua Lê trước ông. Một
hành động nổi bật là ông đã xuống chiếu minh oan
cho bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi vào năm 1464, ra lệnh và cắt
cử người sưu tầm di cảo của Nguyễn Trãi để làm quốc
bảo. Nhờ thế mà di sản văn hoá vĩ đại của Nguyễn
Trãi mới còn đến ngày nay.
Trong
thời đại phong kiến, không một triều đại nào
phát triển rực rỡ như triều đại Lê Thánh Tông. Tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, luật pháp,
văn hoá, xã hội… đều trở nên hoàn thiện chưa từng
thấy. Điều đặc sắc nhất là triều đình đồng thời
là một “hội văn chương”, để lại cho đời những
tác phẩm lớn như Quỳnh uyển cửu ca (bằng chữ
Hán) và Hồng Đức quốc âm thi tập (thơ nôm).
Lê
Thánh Tông có ý thức sâu sắc xây dựng một nền
văn hoá độc lập của dân tộc. Kế thừa di sản
thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, ông đặc biệt chú
trọng xây dựng nền thơ
nôm để một mặt thoát khỏi sự phụ thuộc vào ngôn
ngữ của Trung Hoa, mặt khác mang ý đồ đối thoại, sánh
vai với nền văn chương Bắc quốc! Đó chính là tư tưởng
có tầm chiến lược của một bậc minh quân vĩ đại trong
thế kỉ XV. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó khi đi sâu nghiên
cứu thơ nôm thời Hồng Đức.
Trong
thơ cũng như trong đời, Lê Thánh Tông tuy cao
đạo mà chân thành, tuy kì vĩ mà bình dân.
Ông luôn gần gũi mọi người và tỏ ra là
một con người vô cùng hữu tình, tế nhị, dễ
mến:
Vạc thẩn thơ
tìm nội quạnh,
Trời lác
đác vẻ sao thưa.
Một bầu thế giới hây hây
lạ,
Mấy kẻ
chung tình đã thức chưa?
GIÁ
TRỊ CỦA TẬP THƠ HỒNG
ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
Mặc
dù thời Hồng Đức (1470 – 1497, triều Lê
Thánh Tông) không sản sinh ra một thiên tài thơ nôm
tầm cỡ Nguyễn Trãi, nhưng thơ nôm thời kì
này lại nở rộ trên diện rộng hơn, số người tham gia
sáng tác thơ nôm cũng đông đảo hơn. Mặt khác, chất lượng
thơ cũng có những ưu điểm lớn: nội dung và đề tài
phong phú hơn, nhiều bài thơ rõ ràng đã tiếp thụ được
tinh hoa nghệ thuật trác tuyệt của thơ Nguyễn Trãi. Và
một điều hết sức đặc sắc mà thơ nôm Nguyễn Trãi
không có, đó là sự hiện diện của loại thơ
nôm tiếu lâm, phản ánh bản tính thích cười
của người Việt.
Toàn
bộ nội dung thơ nôm thời Hồng Đức toát lên
tinh thần độc lập và tự cường dân tộc, đặc
biệt chú trọng biểu dương, ca ngợi đất nước An Nam
vừa oai hùng hiển hách vừa vô cùng tươi đẹp như một
xứ sở kì diệu bậc nhất trên thế gian.
Sau
đây là những những nội dung cụ thể:
*
Phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc thông
qua những trang sử oanh liệt và các nhân vật
anh hùng hiển hách như Thánh Gióng, Trưng Vương, Triệu Ẩu,
chiến thắng Bạch Đằng Giang …
Trợ
dân dẹp loạn trả thù
mình,
Chị
nhủ cùng em cất nghĩa binh.
Tô
Định bay hồn vang một trận,
Lĩnh Nam mở
cõi vững trăm thành…
Còn nước còn non còn miếu
mạo,
Nữ
trung đệ nhất đấng tài danh.
Leo lẻo doành xanh nước tựa
dầu,
Trăm ngòi ngàn lạch chảy
về chầu.
Rửa không thay thảy thằng
Ngô dại,
Gịa (giũ) mọi lâng
lâng khách việt hầu.
* Ca ngợi đất nước An Nam gấm vóc, hoàn toàn không
thua kém gì những danh thắng như Tiêu Tương bát
cảnh của Trung Hoa: núi Thần Phù, động Bạch Nha, chùa
Phật Tích, chùa Non Nước, chùa Trấn Võ…
Muối pha bãi bạc sông sâu
hoáy,
Chàm nhuộm cây xanh núi tuyệt
mù.
Khói quán mây ngàn tuôn ngùn
ngụt,
Chợ
quê sóng bể dức (réo)
ù ù…
Hòn
đá ai đem đặt giữa đồng,
Mĩ
miều thiếu nữ lựa (khiến) người trông.
Da dồi phấn tuyết nhuần
nhan sắc,
Đầu gội mưa xuân sạch bụi
hồng...
Tới nay tuổi
đã bao nhiêu tá?
Chành chạnh (khư khư)
bền gan chửa lấy chồng?
(Núi goá)
Những
vẻ tuyệt mĩ của thiên nhiên như trăng, hoa,
thảo mộc, thời tiết bốn mùa, cảnh
đẹp năm canh, lễ hội… đều được miêu tả một
cách tỉ mỉ và đầy chất thơ:
Nước cạn
đồng hồ canh chuyển hai,
Đêm dài
đằng đẵng tựa năm dài.
Vang ngõ
nọ chày cao thấp,
Nhộn
đầu kia địch (sáo) bẻ
bai.
Trăng sáng ba ngàn thế
giới,
Gió
đưa mấy xóm lâu đài…
Mai gầy liễu guộc cỏ
le te,
Biết chạy làm sao khỏi nắng
hè?
Đậu lá, võ vàng con bươm
bướm,
Ấp cây, gầy guộc cái ve
ve…
(Vịnh nắng hè)
*
Phản ánh bản sắc tâm hồn giàu tình cảm và chất
thơ của người Việt qua những bài thơ trữ
tình như: Miếu bà Trương, Vịnh Mị Ê, chùm thơ
Lưu Nguyễn nhập đào nguyên, Ngưu Lang – Chức
Nữ, Vương Tường…
Đây
là lời một người vợ trẻ nói với người chồng phụ
bạc:
Chàng hỡi hai ta nghĩa
đã cân,
Thốt thề
chẳng hổ với linh thần?
… Mây nước dạ chàng dầu
bạc nghĩa,
Cỏ
hoa lòng thiếp hãy còn xuân…
Cách
đây nửa thiên niên kỉ mà thi nhân thuở ấy
đã phát hiện và miêu tả những cảm xúc tinh tế
như vậy nơi tâm hồn một người đàn bà trẻ, điều ấy
không đủ khiến chúng ta ngạc nhiên và khâm phục hay sao?
*
Thơ nôm thời Hồng Đức dành một mảng đáng kể
chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những vật
hết sức thông thường, nhỏ mọn nhưng rất đỗi
thân thương, gắn bó mật thiết với người Việt như hình
với bóng: khoai lang, quả dưa, cây chuối, cây cau, cái nón,
cái đó, cái quạt, ông đầu rau, cối xay, thằng bù nhìn,
nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng vịt…
Ngọt bằng mít, mát bằng
dừa,
Trợ
khát nào qua một quả dưa?
Mùi mẽ
ngon, người dễ trọng,
Tinh thần lạ
thế (đời) đều ưa.
Muỗi hỡi, mi sinh giáp tí
(ngày tháng) nào,
Đêm
đêm lẻn đến cửa buồng tao…
Canh khuya lẩn quất làm cho
nhọc,
Châm
đốt ngoài da có xuể
nào?
(Con muỗi)
Những
đề tài, đối tượng “rất tầm thường” mà văn chương
chữ Hán thường coi khinh và chối bỏ thì thơ nôm Hồng
Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách say sưa khác
thường! Rõ ràng người Việt thế kỉ XV có khát vọng
làm một cuốn từ điển bách khoa bằng thơ
về cuộc sống hiện thực vô cùng sinh động, đáng yêu
đáng quý của dân tộc mình! Họ đã phát hiện được
một chân lí tuyệt vời: chính từ đất mẹ thân yêu đã
sản sinh ra vô vàn cái đẹp cho đời, không cần phải cầu
cạnh, vay mượn ở đâu khác!
Nhiều
bài thơ khác chuyên miêu tả những người bình
dân như: người hái củi, người cày ruộng, người
kiếm cá, trẻ chăn trâu, thằng mõ, người ăn mày… Mặc
dù các thi nhân còn chịu ảnh hưởng loại thơ vịnh
tứ thú (ngư tiều canh mục) của văn học Trung Hoa nhưng
về thực chất, họ muốn nhấn mạnh ý tưởng thâm thúy
quốc dĩ dân vi bản, muốn miêu tả con người, cư dân
trên giang sơn gấm vóc của xứ sở An Nam:
Năm canh bố
cốc (tu hú) tiếng kêu om,
Leo lẻo canh phu (thợ cày)
sớm đã nom.
Gió
ngàn xanh xoay nón lệch,
Mưa núi lục cúi lưng khom…
Tấc
đất tấc vàng yêu bấy tá,
Mồ
hôi dồn dọi thuở đầu mom.
Mõ
này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn cán ra tay chẳng phải
chơi…
Trẻ
già chốn chốn đều nghe hiệu,
Làng nước ai ai cũng cứ
lời…
Thứ
bậc dưới trên quyền cắt
đặt,
Một mình một chiếu thảnh
thơi ngồi.
(Vịnh thằng
mõ)
* Như chúng tôi đã nói trên đây, triều
đại Lê Thánh Tông trị vì là thời kì
cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong
triều ngoài nội đều vang lên những khúc “âu
ca thái bình”. Là ông vua hiền minh và nhân
đức, Lê thánh Tông cư xử với các bề tôi
của mình như tình huynh đệ. Bản tính ông rất hồn nhiên,
vui tính, thích đùa, chứng tỏ ông mang cái gen
trào lộng, khôi hài độc đáo của người Việt. Chắc
chắn chính ông đã “bật đèn xanh” cho chủng loại
thơ nôm tiếu lâm đặc thù của dân tộc ta được nghiễm
nhiên lọt vào Hồng Đức quốc
âm thi tập – một tuyển tập thơ “chính quy”của
triều đình. Đó là thứ thơ mang biểu tượng hai mặt:
một mặt miêu tả phong cảnh hay một sự vật nào đó,
còn mặt kia cố ý miêu tả những động tác phối ngẫu
âm dương của nam và nữ. Trong thế giới tinh thần hết
sức lành mạnh, gần gũi thiên nhiên của người Việt cổ
(cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới), hiện tượng
phối ngẫu âm dương đó là hoàn toàn tốt đẹp, đáng
ngợi ca, là một niềm say sưa, hứng thú thực sự, và hoàn
toàn có thể là một đề tài đặc sắc của văn chương.
(Chỉ có một vài tôn giáo như Phật Giáo, Nho Giáo… kì
thị với hiện tượng tự nhiên đó). Trong văn học dân
gian, nhất là trong truyện tiếu lâm, môtíp “phối ngẫu
âm dương” này thường xuyên xuất hiện và có sức hấp
dẫn đặc biệt làm cho người Việt bật lên tiếng cười
vô cùng thích thú và sảng khoái. Hồng
Đức quốc âm thi tập có ít nhất ba bài thơ thuộc
môtíp ấy: Kênh Trầm, Vụng Bàn Than, Cây
đánh đu.
Đồn rằng huyện Ngọc có
kênh Trầm,
Tuy hẹp le (nhưng) vui
hết mấy rằm (tháng).
Gò
nổi xương trâu rêu lún phún,
Bãi lè
lưỡi bạng (trai) bọt lăm tăm.
Chan chan thuyền khách sào chưa
nhổ,
Sịch sịch chài ai cọc hãy
cằm (cắm).
Có
kẻ kéo khan năm bảy lúc,
Chờ
cho thấy nước bõ đêm nằm.
Một vụng Bàn Than vành vạnh
tròn,
Tư mùa nước chảy chẳng
hay mòn.
Lòng bòng vó
cất bên kia bãi,
Đủng
đỉnh chày đâm mái nọ non.
Cắm nhổ
đầu ghềnh sào mấy cỗi,
Nhấp nhô
mặt nước đá hai hòn.
Ngư
ông đưa đẩy khoan thì nhặt,
Nhân nhẩn (nhởn nhơ)
triều lên nước dẫy (đầy) con.
Bốn
cột lang nha cắm để trồng,
Ả thì
đánh cái, ả còn ngong.
Tế
hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa
lòng.
Tám bức quần hồng bay phới
phới,
Hai hàng chân ngọc
đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường
ấy,
Nhổ
cột đem về để lỗ
không.
Không
nghi ngờ gì nữa, chủng loại thơ
nôm tiếu lâm này là tiền thân của thơ nôm Hồ Xuân
Hương sẽ nở rộ và đạt tới đỉnh cao vào 300 năm sau.
Chúng tôi tin chắc rằng sau thời Hồng Đức, chủng loại
thơ này vẫn luôn được tiếp tục trong nền thơ dân tộc
nhưng vì lí do nào đó đã bị thất truyền. Thơ nôm Hồ
Xuân Hương ở thế kỉ XVIII –XIX cũng chỉ là một sự
kế tục và là trường hợp nổi bật.
Tóm
lại, thơ nôm của Lê Thánh Tông và Hội Tao
Đàn trong nửa cuối thế kỉ XV là một thành
tựu lớn đóng góp vào nền văn hiến Đại Việt, thực
sự làm khởi sắc nền văn học dân tộc.
Dưới
sự lãnh đạo của một ông vua – hiền triết
có tư tuởng và hoài bão chấn hưng đất nước,
tất cả các thi nhân đương thời đều thấm
nhuần tinh thần tự cường tự tôn dân tộc, ra
sức biểu dương sự vinh quang, cái đẹp và sức mạnh
của tổ quốc, của truyền thống văn hoá ưu tú xứ sở
mình. Vua tôi triều Hồng Đức muốn tuyên bố trước thế
giới rằng: trên đất nước Đại Việt ngàn năm này đã
và sẽ tồn tại vĩnh viễn một cuộc sống đích thực,
diễn ra thiên hình vạn trạng và bất tuyệt, gắn chặt
với thiên nhiên tuyệt diệu phương Nam, với truyền thống
lịch sử oai hùng và những phong tục cổ truyền tốt đẹp.
Đất nước ấy tuyệt nhiên không hề kém cạnh gì so với
“Bắc quốc” mà sách vở và thi ca Trung Hoa đã mô tả,
ngợi ca suốt bao nhiêu thời đại!
Lần
đầu tiên ở nước ta, thơ
nôm được nâng lên địa vị thơ
cung đình, mang tầm vóc quốc gia, sánh ngang với thơ
chữ Hán. Thơ nôm ấy không còn bị coi là “nôm na”, vì
chúng được sáng tác bởi những thi nhân kiệt xuất của
thời đại: nhị thập bát tú
(28 ngôi sao thơ) trong Hội Tao
Đàn do đích thân nhà vua sáng lập và đứng làm chủ
súy!
Thơ
nôm thời Hồng Đức là biểu trưng rực rỡ của
một thời đại tự chủ huy hoàng, kế
tục thời đại oanh liệt do Lê Lợi và nghĩa
quân Lam Sơn tạo dựng nên và Nguyễn Trãi là người
cầm ngọn cờ văn hoá.
Dòng
thơ nôm ấy sẽ được thừa kế và
phát triển liên tục trong những thời đại sau ở
các thế kỉ XVI, XVII, XVIII, XIX, XX… đưa nền
thi ca Việt Nam – sau khi đã thoát khỏi tình trạng
phải đi mượn một thứ tiếng nước ngoài là
tiếng Hán – vươn lên tầm vóc chung của nền
thơ nhân loại.