Nữ
sĩ Mộng Cầm, sinh năm 1917, người tình trong thơ Hàn Mặc Tử, sau 5 năm
bị bệnh tai biến và được điều trị tại bệnh viện, nhưng do tuổi cao, sức
yếu đã qua đời vào 16 giờ 20 ngày 23-7-2007
tại
nhà riêng ở số 300 đường Trần Hưng Đạo, phường Lạc Đạo, TP Phan Thiết.
Bà Mộng Cầm lập gia đình và sống ở Phan Thiết. Trong những năm cuối đời,
bà sống với người con gái thứ ba tên Mộng Đức (trong số 8 người con).
Sau tang lễ, vào ngày 26-7, linh cữu của bà Mộng Cầm sẽ được mang đi an
táng tại nghĩa trang Lầu Ông Hoàng (nơi nổi tiếng với mối tình thơ đi
vào văn học của Hàn Mặc Tử).
Nhà ở Mộng Cầm
Năm
1934 khi nhà thơ Hàn Mặc Tử được bạn bè mời vào Sài Gòn, phụ trách
trang văn chương tờ báo “Trong Khuê Phòng” đã quen với nữ độc giả thường
gởi sáng tác thơ, ký tên Mộng Cầm (Mộng Cầm gọi nhà thơ Bích Khê là cậu
ruột). Mối tình thơ của Hàn Mặc Tử đã nảy nở từ đấy cho đến lúc thi sĩ
rơi vào bi kịch bệnh nan y.
Nhà
thơ Hàn Mặc Tử khi sáng tác những dòng thơ nói với người tình của ông,
thì ông luôn nhắc đến một người thiếu nữ tên Mộng Cầm như một người
tình của Hàn Mặc Tử, nhưng mà Mộng Cầm không bao giờ làm người tình thật
của ông được cả.
Người
thiếu nữ thuở đó tên thật là Huỳnh Thị Nghệ, ngày sinh không rõ, chỉ
biết đại khái là cô sinh vào khoảng tháng 5 năm 1917 tại tỉnh Nghệ An,
nhưng gia đình cô Nghệ lại đến sinh sống ở một làng chài ở ven biển
thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Khi
tin cụ Huỳnh Thị Nghệ đã qua đời tháng 7 năm 2007 vào tuổi 90 được
loan ra, tin này làm cho nhiều người có cảm tình với cụ Huỳnh Thị Nghệ
không khỏi bồi hồi tưởng nhớ đến mối tình tuyệt vời giữa cố thi sĩ Hàn
Mặc Tử và Mộng Cầm, nàng thiếu nữ đã dịu dàng nhưng tha thiết bước vào
thơ và đi vào mộng, và chỉ là mộng mị thôi chứ không bao giờ là hiện
thực, có chăng chỉ qua những vần
thơ kể từ những ngày chưa quen biết. Trong bài Trường Tương Tư nhà thơ Hàn Mặc Tử đã viết:
Hiểu gì không, ý nghĩa của trời thơ
Của hương hoa trong trăng lờn lợt bày Của lời câm muôn vì sao áy náy Hiểu gì không em hỡi! hiểu gì không? Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng Cho trăng xuân tràn trề say chới với Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi;
Cho em buồn trời đất ứa sương khuya,
Để em buồn, để em nghiệm cho ra Cái gì kết lại mới thành tinh tú; Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ, Và tình yêu sao lại dở dang chi, Và vì đâu, gió gọi giật lời đi.
Lời đi qua một chiều trong kẽ lá,
Một làn hương mới nửa lừng sa ngã Anh mến rồi ý vị của làn mơ. Lệ Kiều ơi! em còn giữ ý thơ Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo, Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh. Hãy van lơn ở dưới chân Bàn Thành, Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy, Náo không gian cho lửa lòng bùng cháy, Và để cho kinh động đến người tiên, Đang say sưa trong thế giới Hão Huyền Đang trửng giỡn ở bên sông Ngân biếc... Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt, Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi! Lau mắt đi đừng cho lệ đầy vơi. Hãy mường tượng một người thơ đang sống Trong im lìm lẻ loi trong dãy động.
Cũng hình như, em hỡi! động Huyền Không!
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng, Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa. Em có nghĩ ra một chiều vàng úa, Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru: "Một mối tình nức nở giữa âm u, "Một hồn đau rã lần theo hương khói, "Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi, "Một lời run hoi hóp giữa không trung, "Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng, "Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn". Đấy là tất cả người anh tiêu tán, Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ, Cùng tình em tha thiết như văn thơ, Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế
Kể
từ ngày mối tình trong mộng giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm cho đến nay
đã trên nửa thế kỷ rồi, ấy thế mà dấu vết thời gian vẫn không thể xoá
nhoà được nét đẹp rực rỡ của những áng thơ tình ám ảnh cả cuộc đời bất
hạnh của nhà thơ.
Mộng
Cầm có bà dì ruột tên Ngọc Sương, bà này là chị ruột của thi sĩ Bích
Khê, bà thi sĩ này cũng là bạn tình trong thi ca thuở xưa của Hàn Mặc
Tử.
Mộng
Cầm chỉ là bút hiệu, bà muốn gửi gắm những tư tưởng, những vần thơ vào
những kỷ niệm, những suy nghĩ viển vông của người thiếu nữ nhiều tình
cảm qua bút hiệu, nhờ đó để cho đời sống được êm đềm trôi như dòng nườc
chảy, đôi khi chỉ lững lờ trôi theo gió thu nhè nhẹ để thổi cho những
chiếc lá vàng rơi, Mộng Cầm chỉ ước mong cho cuộc đời mình đượ bình
thường giống như các bạn đồng trang lứa, không quá ba chìm bảy nổi và
nhiều sóng gió. Ngược lại với mộng ước bình thường của nàng, con tạo lại
trớ trêu đã làm cho đời nàng không phẳng lặng như niềm mong ước. Vì cha
nàng, ông Huỳnh Quang Long là một Thi Độc Học sĩ, một quan chức nhỏ bé
của triều đình, thân phận của một kẻ sĩ cuối mùa của thời kỳ nho học suy
tàn, cho nên con đường hoạn lộ của ông Huỳnh Quang Long không gặp
thời. Cuộc đổi đời hán nho suy tàn đang tan biến dần, nhường chỗ cho
nền tây học cho nên ông phải làm việc với người Pháp bảo hộ suốt mười
mấy năm trường, rồi có một lần ông bất hoà với viên chủ sự người Pháp
phục vụ trong Toà sứ Quảng Ngãi, thế là ông bị đổi ra Nghệ An , sau đó
ít lâu ông lại bị đưa đi Thanh Hoá, Đồng Hới rồi sau đó lại trở về
Nghệ An, năm 1926 thì ông lâm trọng bệnh và chết ở Quảng Bình. Năm đó
Huỳnh Thị Nghệ được khoảng chín mười tuổi.
Sau
cái đại tang, cuộc sống bình lặng của gia đình cô bé Huỳnh Thị Nghệ
chao đảo, vì suốt cuộc đời thân phụ cô chỉ là một viên chức nhỏ, nên gia
sản của quan Thị độc không có lấy một mảnh ruộng miếng vườn, cũng không
có lấy một căn nhà che mưa trú nắng Nghệ phải theo mẹ về Quảng Ngãi và
lên tàu vào Phan Thiết sống nhờ gia đình người cậu ruột.
Phan
Thiết vào năm 1930, chỉ có vài con phố nhỏ, loanh quanh ta chỉ thấy vài
con đường lộ trải đá chạy dọc con sông Cà Ty có nước chỗ đục chỗ trong.
Mọi sinh hoạt thường tập trung chung quanh khu xóm chài, nơi có những
thuyền buồm đánh cá dong đuổi ra khơi. Khu nhà ga xe lửa nằm gần tháp
nước là nơi những người dân thường trông ngóng chờ nghe tiếng còi tàu hụ
hàng ngày lúc bảy giờ tối, chuyến xe này từ Sài Gòn ra mang theo những
chuyện chính trị, thời sự, văn hóa lạ lẫm với dân địa phương Phan Thiết
của Sài gòn.
Huỳnh
Thị Nghệ có tài làm thơ, nàng sáng tác thơ từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường Ecole Plein Exerria Phan Thiết, năm 16 tuổi có thơ đăng ở báo
Công Luận và báo Sài Gòn với bút hiệu Mộng Cầm. Những bài thơ đường
luật như bài Vịnh Lầu Ông Hoàng và bài Tết, những bài thơ này nàng sáng
tác theo liêm luật thơ cổ điển, tuy vậy nhưng với nội dung và cú pháp
vẫn được người đương thời ưa thích và khuyến khích. Ta hãy thưởng thức
bài Vịnh Lầu Ông Hoàng.
Nước nước non non một cõi này
Lâu đài ai dựng tháp ai xây Sương dầm nắng dãi lờ gan đá Gió dập mưa dồn tủi phận cây Tuồng thế tang thương bao lớp sóng Cuộc đời thành bại mấy chòm mây Đường lên cõi phúc tìm đâu thấy Thấy cảnh đau lòng khách tỉnh say. (Vịnh Lầu Ông Hoàng)
Và bài thơ tả cảnh Tết
Tết nhất làm cho khéo rộn ràng
Nhà nhà bánh mứt dọn nghênh ngang Bạc bài tấp nập ba anh điếm Rượu thịt say sưa mấy bác làng Pháo đốt nổ hoài vui dạ trẻ Lễ dâng thâu mãi nhọc lòng quan... (Tết)
Kể
từ khi thơ cô được đăng báo, sau đó một thời gian ngắn Mộng Cầm nhận
được một bài thơ kèm với một bức thư gửi từ Saigon. Một cô nữ sinh lớp
năm của trường tiểu học Ecole chưa biết gì về tình ái, lại nhận được một
bức thư của một người không quen biết, nhưng chứa đựng những tình cảm
dạt dào đã khiến cô không khỏi bàng hoàng, tim cô xao xuyến, cô đọc bức
thư rồi lại đọc bài thơ Xuân Đầu Tiên mà cảm thấy lòng mình lâng lâng
một niềm vui, dạt dào khó tả.
Mai sáng mai, trời cao rộng quá
Gió căng hơi và nhạc lên mây Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm Chỉ có ao xuân trắng trẻo thay . Mai này thiên địa mới tinh khôi Gió căng hơi và nhạc lên trời Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết Hoa lá hồ nghi sự lạ đời . Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm Còn mặt trời kia tợ khối vàng Có người trai mới in như nguyệt Gió căng hơi và nhạc lên ngàn. Thuở ấy càn khôn mới dựng nên Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên Người thơ phong vận như thơ ấy Nào đã ra đời ngọc biết tên. Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời Mùi thơm ngây dại sóng con người Hãy hoan hô, lời cao như sấm - Vạn tuế, bay ơi! nắng rợp trời. (Xuân Như Ý)
Dòng
thơ của một nhà thơ nổi tiếng trên văn đàn lại được gửi cho một người
con gái mà mình chỉ biết tên qua trang báo chẳng khác chi một cơn giông
bão thổi vào cuộc đời một cô nữ sinh còn trẻ dại của miền tỉnh lẻ Phan
Thiết. Cô vừa mừng vừa vui nhưng lại lo lắng bồn chồn, một mối lo làm
Mộng Cầm không dám viết thư trả lời cho Hàn Mặc Tử dù trong thâm tâm cô
cũng muốn biết thêm về người thanh niên đã từng có danh trên thi đàn với
các biệt hiệu Lệ Thanh, Phong Trần hay Hàn Mặc Tử.
Mộng
Cầm năm đó thi lấy bằng primaire, trong khi chờ công bố kết quả, nàng
theo người cậu ruột ra làm việc tại một trạm xá mà thời đó người ta coi
như một bệnh viện tại Mũi Né. Ở vùng đồi cát hẻo lánh xa xôi này mà có
một phòng khám bệnh phát thuốc và mấy căn nhà nhỏ thấp lè tè làm nhà hộ
sinh cho bà con trong vùng là quý lắm rồi.
Vì
không chuyên môn ngành y khoa nên công việc của Mộng Cầm rất đơn giản,
nàng chỉ phát thuốc và chăm sóc một vài thứ bệnh thông thường mà thôi,
nên còn bao nhiêu thời giờ thì nàng dành để sáng tác thơ hoặc sao chép
những bài thơ nàng ưa thích vào cuốn sổ tay. Có một lần Mộng Cầm tình cờ
đọc tờ báo xuất bản ở Sài Gòn của một bệnh nhân đem đến, có dòng nhắn
tin như sau:
“Mộng Cầm em ở đâu, cho tôi biết địa chỉ - Hàn Mặc Tử“.
Chỉ
vỏn vẹn một dòng chữ ngắn ngủi như vậy thôi mà thực sự làm đời sống
của Mộng Cầm đang êm ả bỗng nổi cơn sóng gió. Nàng bồn chồn xúc động
khi biết người thi sĩ nổi danh kia đã dành cho nàng những tình cảm nồng
nhiệt cho một cho người thiếu nữ chưa quen biết là nàng. Suốt cả đêm hôm
ấy Mộng Cầm thức trọn cả đêm để trằn trọc suy nghĩ, và sau đó nàng
quyết định viết thư hồi âm cho Hàn Mặc Tử. Thời gian khoảng một vài tuần
lễ sau khi nàng gửi thư đi, Hàn Mặc Tử đã đáp xe lửa đi Phan Thiết, rồi
từ Phan Thiết, chàng chuyển sang một phương tiện di chuyển khác, từ
Phan Thiết đến Mũi Né lúc đó chỉ có đò dọc, ghe chở người khách bềnh
bồng trên sông nước suốt cả đêm, mãi đến sáng hôm sau mới ghe mới tới
bến Mũi Né, chàng bước lên bờ vội vã đến gặp Mộng Cầm trong trạm xá bệnh
viện.
Mộng
Cầm, nay đã già và đã cụ bà Mộng Cầm đang hồi tưởng lại lần gặp gỡ đầu
tiên trong đời của bà với nhà thơ Hàn Mặc Tử, bà nói rằng không thể nào
quên được dù buổi sáng ấy cách đây đã gần 60 năm khi bà đang phát thuốc
cho bệnh nhân, người tuỳ phái chạy vào báo rằng có khách ở Sài Gòn đến
tìm, bà đoán ngay ra là chắc chắn là “anh ấy”, rồi khi cầm tấm danh
thiếp đọc tên thì bà biết đã đoán không sai nên bùi ngùi xúc động. Gặp
chàng bà thấy trên người của Hàn Mặc Tử vẫn còn khoác chiếc áo choàng
trắng của bệnh viện, đang đứng đợi bà dưới mái hiên, dáng người chàng
cao dong dỏng, bận bộ đồ com-lê trắng nên hoàn toàn khác với sự tưởng
tượng và hình dung dáng dấp mà trong đầu óc của bà đã tự vẽ về chân dung
của chàng. “Người ấy” không táo bạo, bậm trợn như bà nghĩ mà chỉ nhỏ
nhẹ hỏi: “Mộng Cầm đây phải không. Tôi đáp xe lửa đến Phan Thiết rồi
dùng ghe thuyền đi suốt từ tối đến giờ mới tới”. Và cả hai đều lúng
túng, không ai nói với ai câu nào nữa, cứ im lặng mãi như thế cho tới
khi người cậu của bà nhắc rằng hãy mời khách vào phòng trong mà tiếp
chuyện.
Câu
chuyện sáng hôm ấy giữa nàng và chàng chỉ loanh quanh chuyện thơ ca thi
phú, chuyện thời tiết đó đây, chuyện trên trời dưới đất, chẳng câu
chuyện nào ăn nhập với nhau cả, chứ “anh ấy” tuyệt nhiên không nhắc gì
đến tình cảm riêng tư của chính mình.
“Rồi
mãi đến xế trưa, chuẩn bị lên ghe trở về Phan Thiết cho kịp chuyến xe
lửa trở lại Sài Gòn, lúc đó ảnh mới dám nhìn thẳng vào tôi và nói rằng
hẹn tuần sau ảnh sẽ trở lại thăm tôi”. Bà kể lại như thế. “Khi chiếc
ghe dần khuất sau những cồn cát, lúc ẩn lúc hiện thì lúc đó tôi mới linh
cảm thấy cuộc đời tôi từ nay sẽ bước sang một khúc rẽ. Dòng đời chảy
xuôi hay ngược nào ai biết trước được!”. Sự kín đáo của một người lớn
tuổi, cụ bà Mộng Cầm không nói nhiều về những lần gặp gỡ giữa bà với
Hàn Mặc Tử ở Mũi Né Phan Thiết, cụ bà không xác nhận cũng không phủ
nhận những lần gặp gỡ, những chuyến đi chơi trong buổi chiều mưa ướt,
tránh mưa dưới mộ đá trong một nghĩa địa hoang phế mà sau này nhiều bài
báo, tuồng tích đã khai thác và quy kết là nguyên nhân căn bệnh nan y
mà Hàn Mặc Tử mắc phải.
Mộng
Cầm chỉ kể một vài câu chuyện vui, như khi bà cùng Hàn Mặc Tử băng
qua bãi cát để đến trường Hồng Đức nơi người cậu ruột của Mông Cầm, đó
là nhà thơ Bích Khê đang dạy học tại đó, hoặc bà trách Hàn Mặc Tử ít chú
ý đến cách ăn mặc. Hàn Mặc Tử nhanh nhẩu ứng khẩu ngay bằng những câu
thơ vui:
Người sao như tỉnh lại như say
Xác rác xơ rơ cái mặt mày Chỉ thích cái đời làm thi sĩ Cho nên quần áo chẳng buồn thay
Đọc
mấy câu thơ ấy xong chàng cười thật vui. Bà kể lại rằng có một thời kỳ
kéo dài đến mấy năm, hàng tuần vào chiều thứ sáu cuối tuần, Mộng Cầm xin
phép cậu từ Mũi Né lên Phan Thiết để đáp chuyến xe lửa chiều thứ bảy để
về Saigon, rồi chiều hôm sau Chúa nhật, quyến luyến lúc gặp gỡ cũng
như lúc giã biệt nhau.
Trong
bài thơ “Chan Chứa “ Mộng Cầm đã nhắc nhiều đến những kỷ niệm của cái
thuở ban đầu, gặp nhau cuối tuần, mà cứ như mỗi cuối tuần là một mùa
xuân.
Nếu anh đếm được những vì sao
Thì hiểu em yêu đến bậc nào Tinh tú trên trời không đếm được Tình yêu càng với lại càng cao Cả năm chỉ có một lần xuân Nhưng với lòng em xuân mỗi tuần Thơ thẩn tâm hồn hoa nở nhuỵ Cạn dòng tâm sự được bao lần. Em cứ tưởng rằng anh với em Như hình với bóng dưới màn đêm Hoàng hôn đã khóc niềm chung thuỷ Đau đớn tình anh khắng khít thêm. Cho nên không thể nói không yêu Mà nói rằng yêu, yêu rất nhiều Trời đất ngập tràn thơ vĩnh biệt Lòng em chan chứa biết bao nhiêu (Chan Chứa)
Bà
đính chính rằng nhiều bài báo viết sai sự thật về mối tình của bà và
Hàn Mặc Tử, bà bảo rằng tình yêu giữa hai người hoàn toàn trong sáng,
không có chút gì xàm xỡ hay hoen ố.
Bệnh tình của Hàn Mặc Tử mỗi lúc một trầm kha khiến có lúc ông buồn rầu mà sáng tác bài Muôn Năm Sầu Thảm
Nàng hỡi nàng muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi!
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan.
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió,
Tưởng từng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương...
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì.
Nhớ lắm lúc như si như dại,
Nhớ làm sao bải hoải tay chân!
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng,
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều.
Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm đều.
Trăm năm vẫn còn lòng yêu,
Và còn yêu mãi rất nhiều, em ơi.
|