Friday, May 4, 2012

CON ĐƯỜNG TƠ LỤA


Nhân dịp tham quan thành phố Tây An (XiAn) chúng tôi được giới thiệu đến con đường tơ lụa nơi mà chúng ta thường nghe đọc trên báo chí và truyền hình. Con đường tơ lụa đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người là những hình ảnh của những đàn súc vật chất đầy hàng hoá, tơ lụa trên lưng, nhẫn nại hướng tới những miền đất lạ…

Nguyễn Hồng Phúc – sưu tầm & nghiên cứu



Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỷ 3 TCN. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó. Truyền thuyết từ hơn 4 000 năm trước thời lão tổ của người Trung Quốc các nguyên phi đã tự trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa và dạy dân mở mang nghề này. Năm 1958, tại vùng Tiền Sơn thuộc huyện Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang người ta đã đào được những di vật thời Tân Thạch Khí trong đó phát hiện một khung tre rất đặc biệt. Những phương pháp khảo sát khoa học đã xác định được đây là bộ phận còn sót của khung cửi dệt tơ lụa thời cổ đại, một di vật cách đây hơn 4.000 năm. Lịch sử qua thời kỳ bán khai, trang phục đã trở thành nhu cầu cấp thiết hàng đầu của toàn xã hội. Do đó, mà nghành nghề dâu tằm ngày càng được trọng thị. “Kinh Thi” (tác phẩm thi ca lâu đời của văn học Trung Quốc) cũng có không ít bài mô tả sinh hoạt trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa của phụ nữ Trung Quốc thời cổ đại. Con đường tơ lụa là tuyến đường giao thương Đông - Tây thời cổ đại, ước hơn 8 000 km (5 000 miles). Xuất phát từ Tây An (kinh thành Trường An xưa), qua hành lang Hà Tây (Cam Túc) đến Đôn Hoàng (Dunhuang) thì chia thành ba nhánh vượt qua Tân Cương. 

  

Thực ra “con đường tơ lụa” không chỉ là một con đường bình thường để buôn bán tơ lụa thời bấy giờ. Mặc dù dân tộc tây phương rất chuộng tơ lụa nhưng ấy chỉ là một trong những hàng xa xí phẩm sang trọng như đá quý, kim cương, ngọc và vải satin xuất phát từ nhiều quốc gia như Ấn độ, Ba tư đến vùng Địa Trung Hải. Hơn nữa “con đường tơ lụa” còn là huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á kỳ bí, nó gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những "thương nhân lạc đà", “con đường tơ lụa” còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn. Do sự thông thương của “con đường tơ lụa” những tinh hoa văn hóa, kinh tế giữa Trung Quốc và các nước phương tây cũng giao lưu rất rộng rãi, là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hoá giữa Trung Quốc và phương tây.
Thế kỷ 2 TCN, Trương Khiên (Zhang Qian) nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi (Yueh-chih) nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô, nhưng không may Trương Khiên đã bị chính bộ lạc Hung Nô bắt và giam giữ. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Mặc dù con đường tơ lụa được hình thành từ thế kỷ 2 TCN nhưng lúc đầu con đường này được thành lập với ý định quân sự nhiều hơn mục tiêu thương mại.
Sau 10 năm bị bắt giữ, Trương Khiên trốn khỏi trại và vẫn tiếp tục nhiệm vụ, ông hành trình về Trung Á, Tây Vực. Tiếp kiến biết bao vị thủ lĩnh ở khu vực này nhưng chẳng ai chịu giúp nhà Hán cả. Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đã viết cuốn sách Triều dã kim tài trong đó đề cập đến những vùng đất ông đã đặt chân tới, vị trí địa lý, phong tục tập quán, sản vật, hàng hóa và đặc biệt là tiềm năng giao thương. Triều dã kim tài đã kích thích mạnh các thương gia Trung Hoa. Sau đó, Con đường tơ lụa dần được hình thành, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu... đến Ba Tư và La Mã đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa.
Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là “con đường tơ lụa”. Chính chuyến Tây du này đã hình thành nên một con đường thương mại phồn thịnh bậc nhất thời bấy giờ. Ngày nay vẫn còn nhiều truyền thuyết công nhận Trương Khiên là cha đẻ của “con đường tơ lụa”.
Nhánh nam đi dọc theo rìa nam sa mạc Taklimakan, nhánh giữa đi theo mạn bắc sa mạc Taklimakan, còn nhánh bắc đi theo hướng bắc dãy Thiên Sơn, qua Urumqi… Sau đó, xuyên qua các nước Trung Á, Tây Á đến các quốc gia bên bờ Địa Trung Hải. Ngoài ra còn có hai tuyến đường tơ lụa mà ít người biết đến. Một tuyến là “con đường tơ lụa tây nam”. Khởi điểm từ Tây An (Xian) Trung Quốc qua Vân Nam đến phía bắc Mianmar, rồi đến vùng đông bắc Ấn-độ, sau đó dọc theo sông Hằng đến tây bắc Ấn-độ và đến cao nguyên Iran. Con đường tơ lụa này có sớm hơn con đường tơ lụa trên bộ. Đầu tiên là mặt hàng tơ lụa đến thế kỷ thứ 4 khi kỹ thuật trồng dâu, dệt lụa được truyền bá qua các nước Trung Á và Tây Á thì từ các mặt hàng mỹ nghệ khác đến những phát minh khoa học như thuật in ấn, làm giấy, thuốc súng, luyện thép…của Trung Quốc cũng tiếp tục theo “con đường tơ lụa” truyền bá qua phương tây. Đồng thời những sản vật vùng Trung Đông như Bồ Đào (nho), quả lựu, hạt điều, Chi ma, mục túc (hai giống rau quả)...cũng theo ngã đường này lục tục đổ vào Trung Quốc. Cả ngành nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, vũ khúc...qua đó cũng ảnh hưởng nhau rất sâu đậm. Năm 1986, các nhà khảo cổ lại phát hiện di chỉ Tam Tinh Đôi huyền bí ở thành phố Quảng Hán tỉnh Tân An, có cách đây khoảng hơn 3 nghìn năm, phát hiện những cổ vật có liên hệ với văn hoá Tây Á, Ấn độ và Hy Lạp. Trong đó Kim Trượng dài 142 cm, “cây thần” cao khoảng 4 mét và những người đồng, đầu đồng, mặt nạ đồng có kích thược như người...Các chuyên gia cho rằng những thứ này là được truyền vào Trung Quốc trong thời kỳ giao lưu văn hóa giữa phương đông và phương tây. Nếu quan điểm này được thành lập thì còn đường tơ lụa này được hình thành cách đây hơn 3.000 năm.
Tây An (Trường An) là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa để chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn qua Con đường tơ lụa. Lạc đà là phương tiện vận chuyển chủ yếu trên con đường thương mại này.
Con đường tơ lụa được coi là một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới thời cổ đại, nó được coi như cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây.
Nhà địa lý học danh tiếng người Đức Ferdinand von Richthofen chính là người khai sinh ra cái tên bằng tiếng Đức Seidenstraße (Con đường tơ lụa) khi ông xuất bản hàng loạt những cuốn sách và những bài nghiên cứu vào những năm 1870 về con đường thương mại cổ đại này. Tuy nhiên lịch sử của Con đường tơ lụa có từ trước đó rất lâu.
Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của La Mã thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. Chính trị thời đó cũng có ảnh hưởng lớn đến Con đường tơ lụa. Khi nhà Hán suy vong vào thế kỷ 3, Con đường tơ lụa cũng bị đình lại. Chỉ khi nhà Tống hưng thịnh, con đường này mới phát triển trở lại. Cũng vào thời Tống, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông - Tây này, các vị hoàng đế đã ban hành hàng loạt những chiếu chỉ nhằm khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo đã bắt đầu tìm đến với phương Đông. Con đường tơ lụa dưới triều Tống đã trở thành một điểm nhấn rõ nét trong lịch sử thương mại thế giới. Đến thế kỷ 10, nhà Tống bị lật đổ, con đường tơ lụa cũng bị suy thoái dần. Tuy nhiên với sự hùng mạnh của đế quốc Nguyên Mông, công việc buôn bán sau đó lại thịnh vượng. Còn một con đường tơ lụa nữa là từ Quảng Châu đáp thuyền qua eo biển Malacca, đến Xích Lan (Sri-Lanca ngày nay), qua Ấn-độ và đến Đông Phi. Mọi người gọi con đường này là “con đường tơ lụa trên biển”. Theo các cổ vật được khai quật tại Somalia ...ở vùng đông Phi, con đường tơ lụa trên biển này được hình thành vào thời kỳ Nhà Tống Trung Quốc.
Con đường tơ lụa trên biển đã kết nối Trung Quốc với các nước văn minh thời cổ và cội nguồn văn hoá, thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, văn hóa của những khu vực này, được gọi là “con đường đối thoại giữa phương đông và phương tây”. Theo sử sách ghi lại dưới triều Nguyên, một người Ý nổi tiếng là Marco Polo (1254-1324) đã lưu lạc đến Trung Quốc bằng con đường tơ lụa trên biển và làm quan ở đây 20 năm, sau đó ông trở về nước bằng Con đường tơ lụa. Khi về nước ông cũng đáp thuyền từ Tuyền Châu Phúc Kiến về với quê hương ở Venise. Ông cũng là người có đóng góp cho sự phát triển của mối giao thương Đông - Tây khi viết nên cuốn sách Marco Polo du ký (tiếng Ý: Il Milione) kể về toàn bộ quá trình lưu lạc đến phương Đông của mình trong đó có đề cập đến những chuyến hàng đầy ắp sản vật trên Con đường tơ lụa.
Nhưng đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao khiến cho những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển. Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển). Từ thế kỷ thứ 7, Quảng Châu (Guangzhou) đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến buôn bán. Quảng Châu tràn ngập hàng hoá của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần dần biến mất. Hồi chuông cáo chung của Con đường tơ lụa vang lên cũng là lúc người Ba Tư (Persia tức Iran ngày nay) dần học được cách làm tơ lụa của người Trung Hoa và việc trung chuyển tơ lụa từ đó giảm hẳn do người Ba Tư (Persia ngày nay là Iran) tự làm và bán trực tiếp cho La Mã chứ không nhập khẩu từ Trung Hoa nữa.
Trong những chuyến khảo cổ sau này, người ta đã tìm ra khoảng 50.000 cổ vật nằm rải rác trên Con đường tơ lụa. Chúng là những hiện vật vô giá về lịch sử thương mại thời xưa. Con đường tơ lụa với những chuyến hàng đầy ắp đã trở thành dĩ vãng, những dấu chân lạc đà giờ đã bị cát bụi sa mạc xóa nhòa nhưng cái tên "Con đường tơ lụa" sẽ còn mãi trong lịch sử như một cây cầu kết nối ngoại thương giữa hai nền văn minh Trung Quốc và La Mã.
Dọc theo Con đường tơ lụa có sự hoà trộn và biến hoá trong đức tin tại các địa phương khác nhau đã làm nảy sinh nhiều kiểu đạo Phật khác nhau và có khi không hề giống với đạo Phật nguyên thủy tại Ấn Độ.
Từ kỹ thuật nấu rượu tới Phật giáo và thường được "đổi" bằng hàng hóa, sản vật, người Trung Hoa chuyển đi tơ lụa, thuốc súng, giấy và gốm sứ bằng Con đường tơ lụa. Đổi lại, những hàng hóa quý như vàng, ngà voi, đá quý, kính và kiến thức về thiên văn học giúp Trung Quốc làm sâu thêm những hiểu biết của mình về vũ trụ. Những bản vẽ Mặt Trăng, ngôi sao đã chứng tỏ sự khao khát tìm tòi của người Trung Hoa về vũ trụ. Một tấm bản đồ tìm được ở Đôn Hoàng, Cam Túc làm người ta phải ngạc nhiên: toàn bộ 1 500 vì sao mà con người biết đến 8 thế kỷ sau này đều giống với những gì đã được tả trong tấm bản đồ đó.
Bất chấp vô số những kỳ quan phương Đông mà các thương gia phương Tây đã miêu tả trong các chuyến đi dọc theo Con đường tơ lụa, vẫn có rất nhiều người hoài nghi việc con đường đó có thực sự tồn tại hay không. Chỉ sau khi cha con nhà thám hiểm người Venezia (Italy) - Niccolò Polo và Marco Polo - trở về sau chuyến hành trình thứ hai, người ta mới bắt đầu tin rằng Con đường tơ lụa là có thật.
Theo bà Susan Whitfield, "Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin" và gần 800 năm sau chuyến hành trình của Marco Polo, Con đường tơ lụa huyền thoại lại được tái hiện trong cuộc triển lãm do Thư viện Anh vừa tổ chức năm 2004 giúp cho công chúng nhận biết những giá trị thực của Con đường tơ lụa. Chứng tỏ những ảnh hưởng của Con đường tơ lụa đối với những nền văn minh dọc theo con đường là một thành công cực lớn của cuộc triển lãm. Người ta đã phải mất công chuẩn bị suốt 5 năm, và những hiện vật từ Bảo tàng Guimet ở Paris, Pháp, Bảo tàng Nghệ thuật Ấn Độ ở Berlin, Đức, Bảo tàng Miho ở Tokyo, Nhật Bản và bộ sưu tập riêng của Thư viện Anh... đã truyền cho công chúng niềm cảm hứng mà Withfield đã có được sau 20 năm tìm tòi về Trung Hoa cổ đại do làm việc lâu năm ở Trung Quốc.
“Con đường tơ lụa” ngày nay
Năm 1972 UNESCO thông qua hiệp ước nhằm mục đích bảo vệ những di tích lịch sử trên thế giới nên ra đề nghị cho 146 quốc gia bỏ phiếu chấp nhận  “con đường tơ lụa” như một di sản của văn minh nhân loại. Để được công nhận như một “di sản quốc tế” thì người ta phải loại bỏ những trở ngại về chính trị, địa lý cũng như nguồn gốc dân tộc. Cũng theo hiệp ước này thì cộng đồng quốc tế phải bảo tồn giá trị những di tích được gọi là có ý nghĩa nhân loại.  Trong danh sách di tích sử hiện nay có trên 721 địa danh của trên 100 quốc gia đang được xếp hạng trong đó có “con đường tơ lụa”. Có nhiều địa danh đang bị tàn phá hư hao bởi thiên nhiên sẽ được quỹ UNESCO đài thọ để trùng tu. Đồng thời với sự công nhận của UNESCO, hiệp hội liên đoàn du lịch quốc tế (World Tourism Organization - WTO) cũng bành trướng mạnh mẻ nghành du lịch trong thời gian này, mục đích là khai thác triệt để thị hiếu của du khách đang rất thịnh hành. Đến năm 1998 thì đã có hơn 650 triệu du khách viếng thăm “con đường tơ lụa” và đem vào một lợi tức 445 tỉ đô la đáng kể cho ngành du lịch quốc tế. Tuy nhiên, Cao ủy Âu Châu vẫn còn e ngại vì tình trạng suy đồi của những địa danh trên “con đường tơ lụa” nên họ hô hào và đề nghị ra chỉ đạo “bảo tồn di sản của thế kỷ 21” nhân lần hội họp thứ 12 của WTO. Ngày nay hàng ngàn con đường được mở ra cho du khách viếng thăm nhưng con đường dài nhất là 12 800 km còn được gọi là “con đường lớn tơ lụa”. Cũng năm 1998 UNESCO tuyên bố cuộc khởi đầu việc nghiên cứu thập niên đặc biệt “con đường lớn tơ lụa - con đường đối thoại của đông-tây”. Rất nhiều cuộc viễn chinh được thực hiện để quan sát những nơi trên con đường tơ lụa của 19 quốc gia như Ý, Nhật, v.v....bắt đầu từ Tân An (XiAn) đến Kashgar (tây bắc Tây Tạng) rồi vào nội địa Trung Quốc. Những phái đoàn viễn chinh này đặt cho cái tên “Serindia – vùng đất của Phật”. Cuối năm 1990 và đầu năm 1991 nhiều đoàn viễn chinh gồm nhiều nhà khoa học và nhà báo quốc tế làm một cuộc thám hiểm từ đông sang tây vỉ đại nhất thế kỷ bằng cách khởi hành từ Venice đến Osaka – Nhật và họ khám ra được tổng cộng 27 ngàn cây số của “con đường tơ lụa”. Tương tự cũng có nhiều quốc gia bắt đầu cảm thấy thích thú về sự phổ biến của đạo Phật. Tháng 9 năm 1995 một phái đoàn viễn chinh với danh nghĩa “con đường của Phật giáo” được đài thọ bởi Nepal và UNESCO – khâu Khảo cổ bao gồm nhiều nhà khoa học quốc tế lên đường tiếp tục khám phá “con đường tơ lụa”.  Phái đoàn viếng thăm nhiều tỉnh như Lumibini và thung lủng Katmandu – một cộng đồng Phật giáo rất lớn trong vùng. Việc nghiên cứu 10 năm rất thành công. Tuy nhiên, UNESCO vẫn tiếp tục giúp đở và tài trợ các dự án, nghiên cứu khoa học để làm sống lại giá trị văn hóa của vùng như nghệ thuật làm đồ gốm, thêu dệt carpet (làng Samarkand, Bukhara, Khiva và Kokand), lễ hội cổ truyền ở Boysun (Uzbekistan), v.v...
Phần kết:
          “Con đường tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân nhưng, hoàn chỉnh trong vai trò lịch sử trọng đại. Đây không chỉ là con đường mậu dịch buôn bán Đông Tây thời cổ đại mà, còn là huyết mạch giao lưu chính trị, tôn giáo, văn hóa văn minh giữa Trung Quốc với vùng Trung Đông và cả các nước châu Âu, Trong lịch sử, “con đường tơ lụa” ảnh hưởng sâu đậm đến mối quan hệ giữa Trung Quốc và Tây phương và là tổng hợp tinh hoa, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại. Huyết mạch này tồn tại suốt 17 thế kỷ khi nhân loại chưa phát triển đường hàng hải...
Nguyễn Hồng Phúc – sưu tầm & nghiên cứu




Tài liệu tham khảo:
1.     Wikipedia