Mái
trường che chở tình nghĩa thầy trò, tình đồng môn. Mái nhà cưu mang tình nghĩa
gia đình, gia tộc. Điều này thật hiển nhiên, vì ai cũng có thể cảm nhận bằng
con tim chân thật.
Thời
gian thắm thoát trôi qua, đã gần 50 năm rời khỏi mái trường, hơn 30 năm rời
khỏi quê hương, mọi sự vật đều thay đổi, trường ốc không còn y nguyên như xưa,
cái tên gọi cũng khác, cho nên nếu cứ theo như luận lý hình thức thì mái trường
xưa đó hiện nay hiện hữu ở chỗ nào ? Đối diện với chủ đề Nhớ Trường Xưa của các bạn học cũ đề xướng, tôi
liên tưởng đến phép nhất tâm tam quán ở kinh Kim Cương :
- Mái trường, mà không là mái trường, mới là mái trường.
- Mái trường : khẳng định.
- Mà không là mái trường : phủ định.
- Mái trường : khẳng định.
- Mà không là mái trường : phủ định.
Mới
(thật sự) là mái trường : tổng hợp cả khẳng định với phủ định, có nghĩa là vừa
có lại vừa không, rồi dẫn đến chủ trương chẳng có chẳng không, mà cũng có cũng
không (phi hữu phi không, diệc hữu, diệc không), tới cái đích đó là chân không-
diệu hữu, cái hữu kỳ diệu trong tất cả những kỳ diệu.
Cái
mái trường ở nhịp thứ ba của phép tam quán chính là mái trường trong tâm tưởng
của mỗi người học trò, nó tròn đầy (số 3 = thiên viên) siêu vượt không gian,
thời gian. Anh ở Bà Rịa, chị ở Cali, tôi ở Spaichingen, Bodensee, bạn ở Paris
... những ngày xa xưa ấy, ngày hôm nay hay mai sau, mái trường trong tâm tưởng
vẫn thường hằng, chan chứa tình nghĩa thầy trò, tình bạn hữu đồng môn.
Mái
nhà cũng như vậy, siêu vượt từ phạm vi gia đình, gia tộc đến mái nhà trong tâm
tưởng mọi người thành mái nhà Việt
Nam, mà trong quá khứ đã là mái nhà Đại
Việt, Bách Việt, nói chung là
mái nhà của Việt Tộc.
Mái
nhà này đã bao đời đùm bọc con cháu giống Lạc Hồng, Tiên Rồng (mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân) cùng
trong một bọc trăm trứng. Những học trò cùng qua
một cửa trường gọi là đồng môn,
còn những người công dân nước Việt cùng chung một bọc mà ra nên gọi là đồng bào.
Nhận
được thư mời tham dự đại hội thường niên của Hội Ái Hữu trường xưa, tôi rất vui
mừng, vội đọc ngay để biết tin tức thầy, cô, bạn bè khắp nơi. Đến bức tâm thư
của anh Hội trưởng có đoạn :
“xin
đừng vì những ý kiến bất đồng ý kiến gây sự chia rẻ, làm mất vui trong hội
chúng ta”. tôi cảm thấy ngỡ ngàng, không tin ở con mắt già bệnh hoạn của
mình, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, hy vọng rằng đó chỉ do so sót lúc viết “
đánh máy “, mà đúng ra phải như thế này cho nhẹ nhàng hơn : ”xin đừng vì
những ý kiến bất đồng mà chia rẻ, làm mất vui trong hội chúng ta”.
Tình
trạng này cũng thấy xảy ra tương tự trong nhiều lãnh vực khác. Như vậy thì vì
đâu nên nỗi ?
Tối
hôm đó, tôi cứ trăn trở mãi, đến quá giữa khuya thì mê mệt chìm vào giấc ngủ
mộng mị. Tôi thấy mình đang ở trong gian nhà dột nát, mà bên ngoài thì mưa bão
đang ra sức gầm thét, doạ nạt. Trong cảnh mờ ảo, một cụ già đạo mạo, râu tóc
bạc phơ hiện ra, chỉ tay lên mái nhà, chậm rãi đọc hai câu thơ :
“Nhà
dột bởi đâu ? Nhà dột nóc,
Nếu nhà dột nóc, thế chon von”.
Nếu nhà dột nóc, thế chon von”.
Nghe
2 câu thơ, tôi nhận ra ngay Tiên Ông chính là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm,
nên vội vàng quỳ sụp xuống lạy, đến khi ngước mắt lên thì ông Tiên đã biến mất.
Một
lúc sau, cũng trong cảnh mờ ảo đó lại hiện ra một vị mặc y phục tu sĩ màu
trắng, diện mạo nhân từ, thông thái. Đối chiếu với hình ảnh trên mạng, tôi biết
là mình được may mắn đang đứng trước nhà hiền triết mà mình từng nghe tiếng và
hâm mộ, triết gia giáo sư Kim Định. Tôi kính cẩn chấp tay vái chào. Vị thầy này
từ tốn gật đầu trả lễ :
-
Môn phái ?
- Triết lý quân bình.
- Cùng một bọc Thái Hoà cả.
- Triết lý quân bình.
- Cùng một bọc Thái Hoà cả.
Sau
mấy câu đối thoại ngắn ngủi, vị Thầy chỉ tay về phía bên trên bàn thờ Tổ Tiên ở
gian chính giữa của căn nhà ba gian hai chái (*), nói gọn lỏn chỉ có hai chữ :
“ bị yểm ”, rồi cũng biến mất. Tôi nhìn lên rầm nhà, phía bên trên bàn thờ thì
quả thật có lá bùa vẽ hình bát quái khác thường. Sau khi ghi nhận những điểm dị
thường trên lá bùa, tôi định tìm cách gỡ xuống thì nghe tiếng chuông nhà reo
nên giật mình tỉnh giấc chiêm bao.
Nhân
viên bưu điện trao cho phong bì dày, tôi mở ra mới biết đó là cuốn sách “ Việt Nam : Suối nguồn văn minh
Đông Phương ” của tác giả Du Miên
gởi tặng. Xem tên sách, tôi chợt thầm nghĩ đây cũng rất có thể là một trong
những sách ước để giải trừ bùa yểm, vì Du Miên là một huynh trưởng Hướng Đạo
hằng quan tâm đến tương lai của thế hệ trẻ. Nhưng dù sao mình cũng phải ráng
nhớ lại hình ảnh của lá bùa yểm trong giấc mơ như thế nào, để xem mộng ứng điềm
gì, rồi từ đó rút ra phương cách giải trừ. Tôi nhớ rõ, ở giữa đồ hình Bát quái là
hình tròn Thái cực- Lưỡng nghi mà sao lại quá lạ kỳ, được phân đôi bằng đường
kính thẳng băng : một nửa hoàn
toàn đen, một nửa hoàn toàn
trắng, mà đúng ra Thái cực- Lưỡng nghi của kinh Dịch Việt tộc là hình tròn
được phân đôi bởi đoạn uốn
congtương tự chữ S (nhìn lật ngược), gần giống với hình thể của đất nước Việt Nam,
đồng thời cũng giống đường biểu diễn dao động có dạng hình sinus trong một chu kỳ. Bên màu trắng là
dương lại còn có chấm đen là Thiếu âm, bên màu đen là âm lại có chấm trắng là
Thiếu dương, cho nên không có vấn đề thuần dương hay thuần âm, sở dĩ gọi là
dương vì phần dương trội hơn âm và gọi là âm vì phần âm lấn lướt dương, một vấn
đề tương đối.
Trở
lại đồ hình Thái Cực - Lưỡng Nghi ở lá bùa yểm, đó là biểu tượng triết lý duy lý nhị nguyên Tây phương dứt khoát trắng là trắng,
đen là đen rất hợp với luận lý hình thức của Aristote A = A, cho nên hể chọn
cái này thì phải bỏ cái kia ; “đồng với ta, cho ta là phải ; không đồng với
ta, cho ta là trái ” (Trang
Tử) ; thuận với ta là bạn, nghịch với ta là thù phải đấu tranh một mất, một còn
… Đó là thứ triết lý duy lý lạnh lùng, vô tâm. Với sự thống trị của triết lý
nhị nguyên chỉ chọn có một mặt độc nhất thì mái nhà truyền thống dân tộc lợp
bằng ngói âm dương, thay vì hàng ngói âm, hàng ngói dương xen nhau, ôm chồng
lên nhau, khít khao, kín mít thì lại lợp chỉ bằng một loại hoặc là âm có mặt
lõm ngửa lên, hoặc là dương có mặt khum lồi lên. Như vậy ngôi nhà làm sao mà
không dột. Từ ngày kẻ gian nào đó bên ngoài lẽn vào nhà treo bùa yểm này khiến
cho căn nhà “ dột nóc, thế
chon von ” : nào vợ chồng lục
đục, con cái tố cha, mắng mẹ, anh em không còn hoà thuận, âm khí thật nặng nề,
tràn ngập nghi kỵ, nhìn thấy ai cũng là kẻ thù. Vậy mọi người hãy mau tháo gỡ
lá bùa yểm này xuống, trả lại chỗ cho Đồ
Thái cực - Luỡng Nghi truyền thống của dân tộc càng sớm càng tốt thì mới mong tai qua
nạn khỏi được. Đồ Thái Cực - Lưỡng Nghi dân tộc biểu thị cho triết lý sinh động lưỡng nhất, hai mà một, một mà
hai, âm dương hoà hợp, tình lý tương dung. Đó là triết lý nhân bản tâm linhtrong đó nhân
phẩm thăng hoa, con người là thành viên quan trọng trong hệ thống Tam Tài :
Thiên-Địa-Nhân. Sách Lễ ký có ghi : “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương
chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giả” (Người là cái đức của
trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái khí tinh tú của
ngũ hành).
Ở
Quẻ Ly của kinh Dịch có viết : “Thiên địa khuể nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ khuể nhi kỳ chí
thông dã. Vạn vật khuể nhi kỳ sự loại dã ” (Trời đất sai khác mà công việc cùng chung vậy. Nam nữ sai khác mà ý muốn
thông suốt vậy. Vạn vật sai khác mà công việc giống nhau vậy). Đó là huyền
nghĩa của triết lýđồng nhất trong sai biệt, triết lý quân bình, là
đạo Thái Hoà, cho nên Nguyễn Công Trứ mới đề câu thơ :
“Linh
khâm bảo hợp Thái Hoà”
Tản
Đà mới viết :
“Mình
với ta tuy hai mà một,
Ta với mình tuy một mà hai”.
Ta với mình tuy một mà hai”.
Đạo Thái Hoà mà giữ đúng thì từ bản
thân cá nhân đến gia đình, đoàn thể, xã hội, quốc gia, quốc tế đều có sự hài hoà thì làm gì không có hiếu thảo, hoà thuận, hoà bình.
Những
ai muốn hiểu rõ huyền nghĩa đạo Thái Hoà của dân tộc thì hãy quay về nguồn, tìm
hiểu, nghiên cứu tận tường nền văn hoá, văn minh Văn Lang, nền minh triết Việt
tộc tiềm ẩn trong khắp các di sản của Tổ Tiên, từ những câu tục ngữ, ca dao,
truyện cổ tích, huyền thoại cho đến những di vật khảo cổ đào lên được từ dưới
đất như đồ gốm, trống đồng cũng như phong tục, tập quán (thuần phong, mỹ
tục)còn sót lại nơi thôn xã. Nền minh triết này đã bao đời thấm nhập, tích lũy
tận nơi tiềm thức thâm sâu của người dân, đã tạo thành hồn nước. Tuy ẩn tàng,
tiềm phục mà thật là sáng tỏ : “ Tiềm
tuy phục hỹ diệc khổng chi chiêu ”
(Trung Dung : Tuy ẩn náu, nằm ở dưới mà lại là cái sáng tỏ lớn lao) Tất cả đều
mang những thông điệp, di chúc của Tổ Tiên dưới dạng ẩn ngữ, linh tượng mà con
cháu cần kiến giải. Điều rất thú vị là triết gia Kim Định đã chứng minh được
rằng Nho nguyên thủy và Dịch lý là của Việt tộc, mà người Tàu đã cải biên và cố
tình che giấu nguồn gốc. Về nguồn chỉ mới là một bước, bước thứ hai là dự phóng
tức là hướng về tương lai qua thực tại, hiện thực theo tinh thần “ Ôn cố nhi tri tân ”. Tham gia học hỏi, nghiên cứu,
phát huy nền văn hoá, văn minh, minh triết Việt càng đông càng tốt để hiểu rõ
cái vẻ đẹp cao quý của Việt tính mà làm cơ sở cho niềm tin, lòng tự hào
dân tộc chính đáng, để phân biệt đâu là văn hoá nô dịch của đế quốc, đâu là
tinh hoa văn hoá tự thân của nhân loại. Văn hoá Việt tộc là văn hoá nông nghiệp
có truyền thống yêu chuộng hoà bình, khác hẳn văn hoá du mục thích chiếm đoạt,
cho nên người Việt chống lại văn hoá nô dich của đế quốc chứ không bao giờ
chống lại bất cứ nền văn hoá đích thực nào, cũng như từng chống lại đế quốc xâm
lược, chứ không hề chống lại con người, chống lại một dân tộc nào, không hề có
tư tưởng kỳ thị chủng tộc. Thực vậy, tinh thần ấy phản ánh trung thực qua ca
dao, là tinh túy của hồn nước :
“Bầu
ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Nếu
ai cũng thông suốt Việt lý trên thì việc tháo gỡ những lá bùa trấn yểm sẽ trở
nên dễ dàng và hy vọng ngôi nhà Việt Nam sẽ khang trang trở
lại.Thật mong lắm thay !
Mặt
trời đã lên cao, hướng về giờ Đại Ngọ huy hoàng, người ta nghe vang dội bên kia
sông tiếng hợp ca vui tươi, đầy sức sống của trẻ em trong lớp học Việt ngữ, còn
bên này sông đáp lại giọng ca của đội thiếu nhi Hướng Đạo trong bài ca đồng dao
thân thương :
“ Cái nhà là nhà của ta
Công
khó ông cha lập ra
Các
con nên gìn giữ lấy
Muôn
năm nhớ nước non nhà ”.
Nguyễn Văn Nhiệm
Chú thích :
(*) Ba Gian Hai Chái : là biểu tượng cho lý thuyết Tham Thiên Lưỡng Địa, Thiên
Viên Địa Phương, cũng tương đồng với biểu tượng bánh dày, bánh chưng. Còn 3 + 2
= 5 cũng tượng trưng cho lý thuyết Ngũ Hành. Ở Lạc Thư, số 5 gọi là số Tham
Thiên Lưỡng Địa (bao quát cả âm dương), hỗn hợp của dương căn 3 và âm căn 2.
Trong đạo Thái Hoà của dân tộc, tuy là
theo nguyên lý quân bình, nhưng yếu tố tinh thần, tâm linh phải trội hơn vật
chất, đức trọng hơn tài với tỉ lệ 3 / 2. Sách Nho có câu : “ Đức thắng tài vi
quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân ”. Sự quân bình này có tính cách tương đối,
nên mới có sự vận động, biến dịch, sinh thành. Thật vậy nếu âm dương có cân
bằng tuyệt đối thì mọi sự vật đều im lìm, bất động, đó là sự chết. Hai nhà bác
học Lý Chánh Đạo (Lee Tsung Dao) và Dương Chấn Ninh (Yang Chen Ninh), giải
thưởng Nobel vật lý năm 1957, nhận thấy rằng khi cho nổ hạt nhân nguyên tử thì
có sự phóng xạ : những tia ly tử dương dài hơn tia ly tử âm với tỷ lệ 3/2.
Giải Nobel vật lý mới năm 2008 cũng được trao
cho nhà bác học Mỹ gốc Nhật Yoichiro Nambu, hai nhà bác học Nhật là Makoto
Kobayashi và Toshihide Maskawa do khám phá thuyết cơ học về sự mất đối xứng tự
phát nguyên thủy kể từ buổi khai nguyên vũ trụ cách đây khoảng 14 tỷ năm.
Như vậy có thể nói rằng đã từ lâu lý
thuyết “ Tham thiên lưỡng địa ” của Lạc Thư, tinh thần Kinh Dịch của Việt tộc
đã ẩn sâu vào tiềm thức của các dân tộc Á Đông, một khi tập trung năng lực đúng
mức, khéo kêu gọi thì theo qui luật lượng phẩm, nó sẽ trào vọt lên vùng ý thức
thành phát minh sáng tạo. Như vậy, có thể nói rằng văn hoá Việt tộc xưa là suối
nguồn văn hoá, văn minh Đông Phương, quả thật cũng rất có lý. Nền văn hoá Á
Đông nói chung thuộc về cơ số theo tỉ lệ 3/2, nên cân đối, hài hoà ; trong khi ở
các khu vực khác với tỉ lệ 4/1 hay 1/4 theo biểu tượng kim tự tháp thì không
được như vậy.