Tuesday, March 6, 2012

TỪ MÁI TRƯỜNG ĐẾN MÁI NHÀ VIỆT NAM




 
Sân trường Hoàng Diệu trong ngày lễ kỷ niệm 55 năm thành lập

Mái trường che chở tình nghĩa thầy trò, tình đồng môn. Mái nhà cưu mang tình nghĩa gia đình, gia tộc. Điều này thật hiển nhiên, vì ai cũng có thể cảm nhận bằng con tim chân thật.
Thời gian thắm thoát trôi qua, đã gần 50 năm rời khỏi mái trường, hơn 30 năm rời khỏi quê hương, mọi sự vật đều thay đổi, trường ốc không còn y nguyên như xưa, cái tên gọi cũng khác, cho nên nếu cứ theo như luận lý hình thức thì mái trường xưa đó hiện nay hiện hữu ở chỗ nào ? Đối diện với chủ đề Nhớ Trường Xưa của các bạn học cũ đề xướng, tôi liên tưởng đến phép nhất tâm tam quán ở kinh Kim Cương :
- Mái trường, mà không là mái trường, mới là mái trường. 
- Mái trường : khẳng định.
- Mà không là mái trường : phủ định.
Mới (thật sự) là mái trường : tổng hợp cả khẳng định với phủ định, có nghĩa là vừa có lại vừa không, rồi dẫn đến chủ trương chẳng có chẳng không, mà cũng có cũng không (phi hữu phi không, diệc hữu, diệc không), tới cái đích đó là chân không- diệu hữu, cái hữu kỳ diệu trong tất cả những kỳ diệu.
Cái mái trường ở nhịp thứ ba của phép tam quán chính là mái trường trong tâm tưởng của mỗi người học trò, nó tròn đầy (số 3 = thiên viên) siêu vượt không gian, thời gian. Anh ở Bà Rịa, chị ở Cali, tôi ở Spaichingen, Bodensee, bạn ở Paris ... những ngày xa xưa ấy, ngày hôm nay hay mai sau, mái trường trong tâm tưởng vẫn thường hằng, chan chứa tình nghĩa thầy trò, tình bạn hữu đồng môn.
Mái nhà cũng như vậy, siêu vượt từ phạm vi gia đình, gia tộc đến mái nhà trong tâm tưởng mọi người thành mái nhà Việt Nam, mà trong quá khứ đã là mái nhà Đại Việt, Bách Việt, nói chung là mái nhà của Việt Tộc.
Mái nhà này đã bao đời đùm bọc con cháu giống Lạc Hồng, Tiên Rồng (mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân) cùng trong một bọc trăm trứng. Những học trò cùng qua một cửa trường gọi là đồng môn, còn những người công dân nước Việt cùng chung một bọc mà ra nên gọi là đồng bào.
Nhận được thư mời tham dự đại hội thường niên của Hội Ái Hữu trường xưa, tôi rất vui mừng, vội đọc ngay để biết tin tức thầy, cô, bạn bè khắp nơi. Đến bức tâm thư của anh Hội trưởng có đoạn :
xin đừng vì những ý kiến bất đồng ý kiến gây sự chia rẻ, làm mất vui trong hội chúng ta”. tôi cảm thấy ngỡ ngàng, không tin ở con mắt già bệnh hoạn của mình, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, hy vọng rằng đó chỉ do so sót lúc viết “ đánh máy “, mà đúng ra phải như thế này cho nhẹ nhàng hơn : ”xin đừng vì những ý kiến bất đồng mà chia rẻ, làm mất vui trong hội chúng ta”.
Tình trạng này cũng thấy xảy ra tương tự trong nhiều lãnh vực khác. Như vậy thì vì đâu nên nỗi ?
Tối hôm đó, tôi cứ trăn trở mãi, đến quá giữa khuya thì mê mệt chìm vào giấc ngủ mộng mị. Tôi thấy mình đang ở trong gian nhà dột nát, mà bên ngoài thì mưa bão đang ra sức gầm thét, doạ nạt. Trong cảnh mờ ảo, một cụ già đạo mạo, râu tóc bạc phơ hiện ra, chỉ tay lên mái nhà, chậm rãi đọc hai câu thơ :
Nhà dột bởi đâu ? Nhà dột nóc,
Nếu nhà dột nóc, thế chon von”.
Nghe 2 câu thơ, tôi nhận ra ngay Tiên Ông chính là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nên vội vàng quỳ sụp xuống lạy, đến khi ngước mắt lên thì ông Tiên đã biến mất.
Một lúc sau, cũng trong cảnh mờ ảo đó lại hiện ra một vị mặc y phục tu sĩ màu trắng, diện mạo nhân từ, thông thái. Đối chiếu với hình ảnh trên mạng, tôi biết là mình được may mắn đang đứng trước nhà hiền triết mà mình từng nghe tiếng và hâm mộ, triết gia giáo sư Kim Định. Tôi kính cẩn chấp tay vái chào. Vị thầy này từ tốn gật đầu trả lễ :
- Môn phái ?
- Triết lý quân bình.
- Cùng một bọc Thái Hoà cả.
Sau mấy câu đối thoại ngắn ngủi, vị Thầy chỉ tay về phía bên trên bàn thờ Tổ Tiên ở gian chính giữa của căn nhà ba gian hai chái (*), nói gọn lỏn chỉ có hai chữ : “ bị yểm ”, rồi cũng biến mất. Tôi nhìn lên rầm nhà, phía bên trên bàn thờ thì quả thật có lá bùa vẽ hình bát quái khác thường. Sau khi ghi nhận những điểm dị thường trên lá bùa, tôi định tìm cách gỡ xuống thì nghe tiếng chuông nhà reo nên giật mình tỉnh giấc chiêm bao.
Nhân viên bưu điện trao cho phong bì dày, tôi mở ra mới biết đó là cuốn sách “ Việt Nam : Suối nguồn văn minh Đông Phương ” của tác giả Du Miên gởi tặng. Xem tên sách, tôi chợt thầm nghĩ đây cũng rất có thể là một trong những sách ước để giải trừ bùa yểm, vì Du Miên là một huynh trưởng Hướng Đạo hằng quan tâm đến tương lai của thế hệ trẻ. Nhưng dù sao mình cũng phải ráng nhớ lại hình ảnh của lá bùa yểm trong giấc mơ như thế nào, để xem mộng ứng điềm gì, rồi từ đó rút ra phương cách giải trừ. Tôi nhớ rõ, ở giữa đồ hình Bát quái là hình tròn Thái cực- Lưỡng nghi mà sao lại quá lạ kỳ, được phân đôi bằng đường kính thẳng băng : một nửa hoàn toàn đen, một nửa hoàn toàn trắng, mà đúng ra Thái cực- Lưỡng nghi của kinh Dịch Việt tộc là hình tròn được phân đôi bởi đoạn uốn congtương tự chữ S (nhìn lật ngược), gần giống với hình thể của đất nước Việt Nam, đồng thời cũng giống đường biểu diễn dao động có dạng hình sinus trong một chu kỳ. Bên màu trắng là dương lại còn có chấm đen là Thiếu âm, bên màu đen là âm lại có chấm trắng là Thiếu dương, cho nên không có vấn đề thuần dương hay thuần âm, sở dĩ gọi là dương vì phần dương trội hơn âm và gọi là âm vì phần âm lấn lướt dương, một vấn đề tương đối.
Trở lại đồ hình Thái Cực - Lưỡng Nghi ở lá bùa yểm, đó là biểu tượng triết lý duy lý nhị nguyên Tây phương dứt khoát trắng là trắng, đen là đen rất hợp với luận lý hình thức của Aristote A = A, cho nên hể chọn cái này thì phải bỏ cái kia ; “đồng với ta, cho ta là phải ; không đồng với ta, cho ta là trái ” (Trang Tử) ; thuận với ta là bạn, nghịch với ta là thù phải đấu tranh một mất, một còn … Đó là thứ triết lý duy lý lạnh lùng, vô tâm. Với sự thống trị của triết lý nhị nguyên chỉ chọn có một mặt độc nhất thì mái nhà truyền thống dân tộc lợp bằng ngói âm dương, thay vì hàng ngói âm, hàng ngói dương xen nhau, ôm chồng lên nhau, khít khao, kín mít thì lại lợp chỉ bằng một loại hoặc là âm có mặt lõm ngửa lên, hoặc là dương có mặt khum lồi lên. Như vậy ngôi nhà làm sao mà không dột. Từ ngày kẻ gian nào đó bên ngoài lẽn vào nhà treo bùa yểm này khiến cho căn nhà “ dột nóc, thế chon von ” : nào vợ chồng lục đục, con cái tố cha, mắng mẹ, anh em không còn hoà thuận, âm khí thật nặng nề, tràn ngập nghi kỵ, nhìn thấy ai cũng là kẻ thù. Vậy mọi người hãy mau tháo gỡ lá bùa yểm này xuống, trả lại chỗ cho Đồ Thái cực - Luỡng Nghi truyền thống của dân tộc càng sớm càng tốt thì mới mong tai qua nạn khỏi được. Đồ Thái Cực - Lưỡng Nghi dân tộc biểu thị cho triết lý sinh động lưỡng nhất, hai mà một, một mà hai, âm dương hoà hợp, tình lý tương dung. Đó là triết lý nhân bản tâm linhtrong đó nhân phẩm thăng hoa, con người là thành viên quan trọng trong hệ thống Tam Tài : Thiên-Địa-Nhân. Sách Lễ ký có ghi : “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giả” (Người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành).
Ở Quẻ Ly của kinh Dịch có viết : “Thiên địa khuể nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ khuể nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật khuể nhi kỳ sự loại dã ” (Trời đất sai khác mà công việc cùng chung vậy. Nam nữ sai khác mà ý muốn thông suốt vậy. Vạn vật sai khác mà công việc giống nhau vậy). Đó là huyền nghĩa của triết lýđồng nhất trong sai biệt, triết lý quân bình, là đạo Thái Hoà, cho nên Nguyễn Công Trứ mới đề câu thơ :
Linh khâm bảo hợp Thái Hoà
Tản Đà mới viết :
Mình với ta tuy hai mà một,
Ta với mình tuy một mà hai
”.
Đạo Thái Hoà mà giữ đúng thì từ bản thân cá nhân đến gia đình, đoàn thể, xã hội, quốc gia, quốc tế đều có sự hài hoà thì làm gì không có hiếu thảo, hoà thuận, hoà bình.
Những ai muốn hiểu rõ huyền nghĩa đạo Thái Hoà của dân tộc thì hãy quay về nguồn, tìm hiểu, nghiên cứu tận tường nền văn hoá, văn minh Văn Lang, nền minh triết Việt tộc tiềm ẩn trong khắp các di sản của Tổ Tiên, từ những câu tục ngữ, ca dao, truyện cổ tích, huyền thoại cho đến những di vật khảo cổ đào lên được từ dưới đất như đồ gốm, trống đồng cũng như phong tục, tập quán (thuần phong, mỹ tục)còn sót lại nơi thôn xã. Nền minh triết này đã bao đời thấm nhập, tích lũy tận nơi tiềm thức thâm sâu của người dân, đã tạo thành hồn nước. Tuy ẩn tàng, tiềm phục mà thật là sáng tỏ : “ Tiềm tuy phục hỹ diệc khổng chi chiêu ” (Trung Dung : Tuy ẩn náu, nằm ở dưới mà lại là cái sáng tỏ lớn lao) Tất cả đều mang những thông điệp, di chúc của Tổ Tiên dưới dạng ẩn ngữ, linh tượng mà con cháu cần kiến giải. Điều rất thú vị là triết gia Kim Định đã chứng minh được rằng Nho nguyên thủy và Dịch lý là của Việt tộc, mà người Tàu đã cải biên và cố tình che giấu nguồn gốc. Về nguồn chỉ mới là một bước, bước thứ hai là dự phóng tức là hướng về tương lai qua thực tại, hiện thực theo tinh thần “ Ôn cố nhi tri tân ”. Tham gia học hỏi, nghiên cứu, phát huy nền văn hoá, văn minh, minh triết Việt càng đông càng tốt để hiểu rõ cái vẻ đẹp cao quý của Việt tính mà làm cơ sở cho niềm tin, lòng tự hào dân tộc chính đáng, để phân biệt đâu là văn hoá nô dịch của đế quốc, đâu là tinh hoa văn hoá tự thân của nhân loại. Văn hoá Việt tộc là văn hoá nông nghiệp có truyền thống yêu chuộng hoà bình, khác hẳn văn hoá du mục thích chiếm đoạt, cho nên người Việt chống lại văn hoá nô dich của đế quốc chứ không bao giờ chống lại bất cứ nền văn hoá đích thực nào, cũng như từng chống lại đế quốc xâm lược, chứ không hề chống lại con người, chống lại một dân tộc nào, không hề có tư tưởng kỳ thị chủng tộc. Thực vậy, tinh thần ấy phản ánh trung thực qua ca dao, là tinh túy của hồn nước :
Bầu ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Nếu ai cũng thông suốt Việt lý trên thì việc tháo gỡ những lá bùa trấn yểm sẽ trở nên dễ dàng và hy vọng ngôi nhà Việt Nam sẽ khang trang trở lại.Thật mong lắm thay !
Mặt trời đã lên cao, hướng về giờ Đại Ngọ huy hoàng, người ta nghe vang dội bên kia sông tiếng hợp ca vui tươi, đầy sức sống của trẻ em trong lớp học Việt ngữ, còn bên này sông đáp lại giọng ca của đội thiếu nhi Hướng Đạo trong bài ca đồng dao thân thương :
 Cái nhà là nhà của ta
Công khó ông cha lập ra
Các con nên gìn giữ lấy
Muôn năm nhớ nước non nhà ”. 
Nguyễn Văn Nhiệm  
Chú thích : (*) Ba Gian Hai Chái : là biểu tượng cho lý thuyết Tham Thiên Lưỡng Địa, Thiên Viên Địa Phương, cũng tương đồng với biểu tượng bánh dày, bánh chưng. Còn 3 + 2 = 5 cũng tượng trưng cho lý thuyết Ngũ Hành. Ở Lạc Thư, số 5 gọi là số Tham Thiên Lưỡng Địa (bao quát cả âm dương), hỗn hợp của dương căn 3 và âm căn 2.
 Trong đạo Thái Hoà của dân tộc, tuy là theo nguyên lý quân bình, nhưng yếu tố tinh thần, tâm linh phải trội hơn vật chất, đức trọng hơn tài với tỉ lệ 3 / 2. Sách Nho có câu : “ Đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân ”. Sự quân bình này có tính cách tương đối, nên mới có sự vận động, biến dịch, sinh thành. Thật vậy nếu âm dương có cân bằng tuyệt đối thì mọi sự vật đều im lìm, bất động, đó là sự chết. Hai nhà bác học Lý Chánh Đạo (Lee Tsung Dao) và Dương Chấn Ninh (Yang Chen Ninh), giải thưởng Nobel vật lý năm 1957, nhận thấy rằng khi cho nổ hạt nhân nguyên tử thì có sự phóng xạ : những tia ly tử dương dài hơn tia ly tử âm với tỷ lệ 3/2.
Giải Nobel vật lý mới năm 2008 cũng được trao cho nhà bác học Mỹ gốc Nhật Yoichiro Nambu, hai nhà bác học Nhật là Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa do khám phá thuyết cơ học về sự mất đối xứng tự phát nguyên thủy kể từ buổi khai nguyên vũ trụ cách đây khoảng 14 tỷ năm.
 Như vậy có thể nói rằng đã từ lâu lý thuyết “ Tham thiên lưỡng địa ” của Lạc Thư, tinh thần Kinh Dịch của Việt tộc đã ẩn sâu vào tiềm thức của các dân tộc Á Đông, một khi tập trung năng lực đúng mức, khéo kêu gọi thì theo qui luật lượng phẩm, nó sẽ trào vọt lên vùng ý thức thành phát minh sáng tạo. Như vậy, có thể nói rằng văn hoá Việt tộc xưa là suối nguồn văn hoá, văn minh Đông Phương, quả thật cũng rất có lý. Nền văn hoá Á Đông nói chung thuộc về cơ số theo tỉ lệ 3/2, nên cân đối, hài hoà ; trong khi ở các khu vực khác với tỉ lệ 4/1 hay 1/4 theo biểu tượng kim tự tháp thì không được như vậy.